Lịch sử Việt Nam chịu ảnh hưởng như thế nào bởi chính sách đại Hán của Trung Quốc
Hãy liên hệ: Lịch sử Việt Nam chịu ảnh hưởng như thế nào bởi chính sách đó A. Có quan hệ bang giao hữu nghị, cùng phát triển B. Trở thành đối tượng xâm lược của tất cả các triều đại phong kiến ở Trung Quốc Show C. Trở thành đối tượng xâm lược của một số các triều đại phong kiến ở Trung Quốc Chủ nghĩa Đại Hán (chữ Hán: 大漢族主義 Đại Hán tộc chủ nghĩa / 漢沙文主義 Hán sô vanh chủ nghĩa tại Trung Quốc đại lục và Đài Loan được gọi là 漢本位 Hán bản vị) là một dạng tư tưởng sô vanh coi người Hán là thượng đẳng so với các dân tộc khác. Chủ nghĩa Đại Hán cũng đôi khi cũng thể hiện sự tự hào của người Hán trước sự bành trướng của các triều đại Trung Quốc trong quá khứ. Tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử, chủ nghĩa Đại Hán có thể là chủ nghĩa vị chủng của người Hán và văn hóa Hán. Trong thời tiền hiện đại, tư tưởng này xem Trung Quốc như là nền văn minh duy nhất trên thế giới, và các quốc gia nước ngoài hoặc các nhóm dân tộc khác chỉ như là "rợ" ở các mức độ khác nhau, gộp trong tứ di ở bốn phương trời. Thời hiện đại, tư tưởng này nói tới tầm quan trọng của Trung Quốc với vị trí tối cao so với các quốc gia khác. Tư tưởng này thường bị thế giới, nhất là Argentina, Anh Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga và Đức, những quốc gia cũng nổi tiếng với chủ nghĩa dân tộc chỉ trích nặng nề vì thái độ "xâm lược" của Trung Quốc. Mục lục
Đặc điểm cơ bảnSửa đổiTheo giáo sư Trần Đình Hượu, chủ nghĩa Đại Hán có những đặc điểm cơ bản như sau:
Chủ nghĩa Đại Hán đối với Việt NamSửa đổiViệt Nam đã có quan hệ mật thiết nhưng không phải lúc nào cũng hoà bình với Trung Quốc. Việt Nam bị cai trị bởi Trung Quốc trong khoảng 1.000 năm trước khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10 (năm 939). Trong các thế kỷ tiếp theo Việt Nam luôn chống lại quân xâm lược Trung Quốc, xung đột với Trung Quốc có thể được xem như là một trong những chủ đề chính của lịch sử Việt Nam. Động cơ xâm lược Việt Nam:
Trong hơn 1.000 năm bị thống trị, Việt Nam không dừng các cuộc nổi dậy. Cuối cùng nền độc lập cũng tái lập. Những lý do chính được xem xét là:
Đó là lý do thôi thúc người Việt đấu tranh không ngừng, dù trải qua hơn 1.000 năm bị đồng hóa mạnh mẽ về nhân chủng và văn hóa, người Việt Nam vẫn mang niềm tin về một chủ nghĩa dân tộc khác biệt, khát khao giành lấy độc lập tự do cho mình. Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc đã bị Hán hóa (Sinicized) rất nhiều, đã từng sử dụng cổ văn Trung Quốc như là ngôn ngữ viết chính thức của mình và sử dụng một số khía cạnh của văn hóa Trung Hoa, bao gồm cả hệ thống hành chính, kiến trúc, triết học, tôn giáo, văn học,.v.v. (tương tự với các quốc gia khác nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc như Hàn Quốc, Nhật Bản,...). Tuy chủ động học tập các thành tựu văn hóa của Trung Quốc, Việt Nam luôn kiên trì xác định bản thân trong quan hệ với Trung Quốc, là vương quốc độc lập phía Nam so với Trung Quốc ở phía bắc, như đã thấy trong dòng này từ một bài thơ (trong tiếng Hán) của tướng Lý Thường Kiệt (1019-1105): "Sông núi nước Nam vua Nam ở" (chữ Hán: (南國山河南帝居). Trong việc áp dụng tập quán của Trung Quốc, các vương triều Việt Nam cũng đã áp dụng thế giới quan của Trung Quốc. Trong suốt thời kỳ phong kiến độc lập, Việt Nam đã nhiều lần sử dụng danh xưng Trung Quốc để gọi quốc gia mình. Ví dụ, năm 1805, Vua Gia Long gọi Việt Nam là "trung quốc" (dịch nghĩa đen là "nước ở giữa"), "vương quốc ở giữa" [1] Campuchia thường xuyên được gọi là Cao Miên, đất nước của "rợ trên". Năm 1815, Gia Long cho rằng 13 quốc gia là chư hầu của Việt Nam, bao gồm cả Luang Prabang, Vạn Tượng, Miến Điện, Pháp, Anh, cao nguyên Trấn Ninh ở miền đông Lào, và hai nước được gọi là Thủy Xá và Hỏa Xá, mà thực ra là các bộ lạc Jarai có nguồn gốc Mã Lai - Đa Đảo sinh sống giữa Việt Nam và Thái Lan. Sao chép mô hình Trung Quốc, các triều đại Việt Nam đã cố gắng điều tiết việc xuất trình cống nạp cho chính quyền trung ương Việt Nam, vào năm mới và lễ sinh nhật của hoàng đế, cũng như các tuyến đường đi lại và kích thước của các phái bộ.[2] Việc Trung Quốc suy yếu, Pháp cũng như phương Tây gia tăng ảnh hưởng trong thế kỷ 19, Việt Nam đã bãi bỏ các kỳ thi Nho học và ngừng sử dụng các ký tự Trung Quốc và Chữ Nôm trong thế kỷ 20 dưới sự cai trị của người Pháp. Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
|