Mang tai nằm ở đâu

Những nguyên nhân gây sưng tuyến mang tai

Sỏi tuyến nước bọt: Một nguyên nhân phổ biến dẫn đến tắc tuyến nước bọt và làm mang tai sưng phồng là sỏi. Sỏi tuyến nước bọt là tình trạng đóng khối của canxi và phosphate tại đường ra của các tuyến nước bọt ở khoang miệng. Những sỏi lớn có thể làm tắc tuyến nước bọt, gây viêm, thậm chí áp- xe. Để chẩn đoán xác định chính xác sỏi tuyến nước bọt, cần chụp Xquang hoặc CT - scaner. Sỏi tuyến nước bọt thường không gây triệu chứng khi mới hình thành nhưng nếu đạt đến kích thước của ống dẫn nước bọt và gây tắc nghẽn, nước bọt tràn vào các tuyến gây đau và sưng. Người bệnh có thể cảm thấy cơn đau xuất hiện rồi giảm dần, nhưng rồi triệu chứng ngày càng  nặng nề hơn, viêm và áp- xe xuất hiện sau đó.

Viêm tuyến nước bọt đơn thuần: Bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần do các tác nhân gây bệnh như: Staphylococcus aureus, Parainfluenza, coxsackie... gây nên. Hoặc như đã nói ở trên, viêm tuyến nước bọt mang tai có thể do sỏi, làm tắc ống dẫn tuyến và gây viêm. Bệnh thường chỉ gây ra các tổn thương tại tuyến nước bọt, diễn biến lành tính, đa số tự khỏi hoặc có trường hợp chuyển sang viêm mạn tính phì đại tuyến.

Mang tai nằm ở đâu
Hình ảnh giải phẫu tuyến nước bọt mang tai.

Biểu hiện là vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, sưng lan rộng ra xung quanh tuyến, da ở vùng tuyến bị sưng có biểu hiện tấy đỏ, đau, nói và nuốt đều rất đau, có hạch viêm phản ứng ở vị trí góc hàm hoặc sau tai cùng bên. Sốt từ 38-390C, ấn vào vùng tuyến mang tai thấy có mủ chảy ra ở miệng ống Stenon.

Bệnh quai bị: Nếu tuyến nước bọt mang tai bị viêm do virut quai bị thì được coi là bệnh quai bị, tuy nhiên tỷ lệ viêm tuyến mang tai do virut quai bị chỉ chiếm 24% trong tổng số các nguyên nhân gây bệnh tại tuyến này. Sau khi tiếp xúc với virut quai bị khoảng 14 - 24 ngày, người bệnh có biểu hiện sốt cao từ 38 - 390C, đau đầu, chán ăn, khó nuốt, khó nói chuyện, đau nhức các khớp xương. Vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, lan ra vùng trước tai và lan xuống dưới hàm. Có khi sưng lan đến ngực gây phù trước xương ức. Da ở vùng sưng có màu sắc bình thường, không bị nóng đỏ và có tính đàn hồi. Bệnh quai bị thường sưng cả 2 bên tuyến nước bọt mang tai, sưng 2 bên so với sưng 1 bên có tỷ lệ là 6/1. Tuyến mang tai trong bệnh quai bị thường sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng từ từ trong khoảng 1 tuần. Song song với các tổn thương ở tuyến nước bọt, virut quai bị còn gây viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm não, viêm tụy cấp, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi kẽ, viêm đa khớp hoặc biểu hiện ở các cơ quan khác như tuyến lệ, tuyến ức, tuyến giáp, tuyến vú, buồng trứng. Các tổn thương này thường có các triệu chứng không điển hình, thường diễn biến lành tính.

U tuyến nước bọt: Một số loại u khác nhau có thể ảnh hưởng đến tuyến nước bọt. U tuyến nước bọt hầu hết là lành tính và thường được phát hiện ở tuyến mang tai. Phổ biến nhất là u tuyến đa dạng. Các u tuyến đa dạng thường chỉ có một và ở một bên. Khối u phát triển chậm và có thể không có triệu chứng. Ít gặp hơn là u tế bào hạt, u tế bào đáy.

Các khối u ác tính (ung thư) có thể bao gồm ung thư biểu mô dạng nhày bì, ung thư biểu mô tế bào gai hoặc ung thư biểu mô tuyến. Khác với các khối u tuyến nước bọt lành tính, các khối u ác tính có thể phát triển nhanh, đau khi chạm vào, có thể dính với mô bao quanh, có thể gây liệt nhẹ hoặc liệt dây thần kinh mặt.

Hội chứng Sjogren: Hội chứng Sjogren là một bệnh tự miễn mạn tính, trong đó hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các tuyến ngoại tiết trong đó có tuyến nước bọt. Khoảng 50% những người mắc hội chứng Sjogren bị sưng tuyến mang tai ở hai bên, thường không đau. Người mắc hội chứng Sjogren giảm tiết nước bọt nên dễ bị hôi miệng, khó nói, khó nhai và nuốt, giảm hoặc mất vị giác. Tình trạng viêm nhiễm nướu hay sâu răng cũng dễ xảy ra hơn. Tuyến lệ bị thâm nhiễm tế bào lympho và tương bào nên giảm tiết nước mắt dẫn đến viêm kết giác mạc khô, đỏ mắt, viêm mí mắt. Người bệnh thường có cảm giác ngứa, nóng rát hai mắt, có cảm giác cộm và tăng nhạy cảm với ánh sáng. Ở những trường hợp nặng hơn, có thể gặp biến chứng loét mắt. Mũi, họng, thanh phế quản, da và âm đạo cũng có thể phải trải qua tình trạng khô niêm mạc tương tự như mắt và miệng.

Mang tai nằm ở đâu
Sưng tuyến nước bọt mang tai do rất nhiều nguyên nhân khác nhau.

Điều trị thế nào?

Sưng tuyến mang tai chỉ là biểu hiện của nhiều bệnh, vì thế việc điều trị tùy thuộc vào chẩn đoán bệnh.

Sỏi tuyến nước bọt: Đối với sỏi nhỏ, chỉ cần gây kích thích tăng lưu lượng nước bọt để đẩy sỏi ra bằng cách uống nhiều nước, ngậm chanh hoặc kẹo chua. Có thể mát xa, chườm ấm để giảm sưng hoặc đẩy viên sỏi ra khỏi tuyến nước bọt.

Trường hợp sỏi tuyến nước bọt phức tạp, cần phẫu để loại bỏ sỏi. Nội soi là một phương pháp phẫu thuật thường được chọn vì ít xâm lấn. Ngoài ra thuốc kháng sinh có thể được sử dụng nếu sỏi tuyến nước bọt gây nhiễm trùng.

Viêm tuyến nước bọt: Phương pháp điều trị thường là thuốc bao gồm kháng sinh, giảm đau, hạ sốt. Tuy nhiên, phẫu thuật có thể cần thiết để dẫn lưu áp-xe. Nếu viêm do nhiễm virut, phương pháp điều trị tập trung vào việc làm giảm các triệu chứng bao gồm nghỉ ngơi, uống nhiều chất lỏng để ngăn ngừa mất nước và uống thuốc giảm đau và giảm sốt.

U tuyến nước bọt: Các khối u lành tính và các khối u ác tính nhỏ, giai đoạn đầu được loại bỏ bằng phẫu thuật, và điều trị bằng bức xạ để ngăn ngừa tái phát. Khối u ác tính không thể phẫu thuật được điều trị bằng hóa trị và xạ trị.

Hội chứng Sjogren: Điều trị hội chứng Sjogren hiện tại chỉ có vai trò cải thiện các triệu chứng chứ không thể giải quyết nguyên nhân của bệnh. Vì vậy hội chứng Sjogren vẫn là một chứng bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn. Người bệnh cần vệ sinh răng miệng tốt và tránh bất kỳ loại thuốc nào có thể làm cho tình trạng khô miệng tồi tệ hơn, dùng thuốc theo đơn, và theo chỉ dẫn của bác sĩ để kích thích tiết nước bọt nhiều hơn. Không hút thuốc. Nhai kẹo cao su không đường và kẹo chua để kích thích sản xuất nước bọt.


Mang tai nằm ở đâu

Màng nhĩ là lớp đường phân chia giữa tai ngoài và tai giữa. Màng nhĩ có hình bầu dục, hơi lồi, giống như một hình nón với các phần rỗng của nón quay ra phía ngoài, và nghiêng một góc 30 độ so với đáy ống tai. Màng nhĩ bình thường có màu trong mờ, trắng sáng hay hơi xám hồng. Thường, chúng ta có thể nhìn xuyên qua màng nhĩ.

Màng nhĩ

Màng nhĩ có chiều cao khoảng 9mm (1/4 inch), và rộng khoảng 8 mm (3/8 inch). Màng nhĩ mỏng như giấy nhưng rất chắc. Màng nhĩ có ba lớp. Lớp đầu tiên là lớp da của ống tai, nằm phía ngoài màng nhĩ. Tiếp theo, là một lớp sợi cứng. Các sợi ngoài cùng giống như các nan hoa của bánh xe. Các sợi bên trong là đồng tâm, xòe ra trong vòng tròn mở rộng. Kết hợp với nhau, chúng tạo thành một lớp màng đặc biệt chắc không bị rách theo thời gian dưới tác động áp lực của nước, không khí, và nhiễm trùng. Cuối cùng là lớp bên trong được gọi là màng nhầy, nằm ở khoang tai giữa

.Ở trẻ em, màng nhĩ mỏng và có độ đàn hồi, trở nên dày hơn và cứng hơn khi trưởng thành. Vòng hình khuyên giữ màng nhĩ cố định tạo thành một lớp màng không thấm nước và kín giữa tai giữa và tai ngoài.

Sự rung động của âm thanh, năng lượng âm thanh, được tăng dần bởi vành tai và sự cộng hưởng của ống tai, làm cho màng nhĩ dễ di chuyển ra sau và ra trước đáp ứng với những rung động. Màng nhĩ được gắn với xương búa ở tai giữa.

Ở tai bình thường, xương búa treo từ đầu màng nhĩ tới điểm khoảng 2/3 màng nhĩ hướng xuống. Tại điểm đầu xương búa gắn với màng nhĩ, màng nhĩ được kéo về phía tai giữa, tạo thành chóp phía trong của hình nón.

Ánh sáng của đèn soi tai phản chiếu từ đầu xương búa đến đáy màng nhĩ gọi là tam giác sáng. Tam giác sáng này hiện diện ở hầu hết các tai bình thường.

Mô của 4/5 dưới của màng nhĩ chắc và được gọi là màng căng (pars tensa). 1/5 trên mềm vì bị thiếu lớp xơ được gọi là màng chùng.

Các góc tư của màng nhĩ

Màng nhĩ được chia làm 4 phần để giúp chúng ta dễ dàng mô tả vị trí liên quan các phần giải phẫu hay các vị trí được quan tâm.

Cho màng nhĩ là một vòng ở bên đầu, trục dọc sẽ theo cán búa bắt đầu ở 1h cho chúng ta phần trước và sau màng nhĩ. Trục ngang bắt đầu tại 4h chia màng nhĩ phần trên và dưới. Màng nhĩ được chia thành 4 phần. Ví dụ màng nhĩ thủng, lỗ thủng nằm ở phần trên sau màng nhĩ.

Rối loạn chức năng tai

Bốn lý do cơ bản vì sao bạn cần biết về rối loạn chức năng tai:

- Bổ sung kiến thức của bạn về hoạt động của cơ chế nghe.

- Giúp bạn hiểu rõ các vấn đề của các khách hàng có liên quan tới y học.

- Giúp bạn biết khi nào nên khuyên khách hàng của bạn tới gặp bác sĩ.

- Giúp bạn lựa chọn tốt hơn độ khuếch đại thích hợp với từng mức độ khiếm thính của khách hàng.

Các dạng điếc

1. Điếc dẫn truyền: Do sự không hoạt động hoặc tắc nghẽn phần nào đó ở tai ngoài hoặc tai giữa, làm ngăn cản đường truyền của âm thanh. Hầu hết các nguyên nhân ngăn cản đường truyền âm thanh này có thể giải quyết bằng điều trị y khoa.

2. Điếc tiếp nhận hay còn gọi là điếc thần kinh giác quan: Do sự tổn thương tai trong làm âm thanh truyền đến tai không biến đổi được thành các xung điện.

3. Điếc hỗn hợp: Do sự tổn thương kết hợp cả tai ngoài hoặc tai giữa với tai trong. Loại điếc này có cả đặc điểm của điếc dẫn truyền và điếc tiếp nhận.

4. Điếc thần kinh trung ương: Não không thể xử lý, nhận và hiểu âm thanh hoặc câu nói một cách chính xác.

5. Điếc vô cơ (non-organic hearing loss): thường gọi là điếc chức năng. Bệnh chủ yếu do một vài nguyên nhân tâm lý. Không có tổn thương các cơ quan liên quan tới cơ chế nghe.

Các tình trạng nêu bên dưới chỉ ra các sự rối loạn chức năng dẫn truyền:

Các dị tật tai bao gồm chít hẹp hay không có ống tai ngoài và bị dị dạng hay không có vành tai, vành tai dạng súp lơ (bông cải). Những dị tật này có thể gây nghe kém.

Nút ráy tai là nguyên nhân phổ biến dẫn đến điếc dẫn truyền. Thông thường, ráy tai di chuyển ra cửa ống tai ngoài. Đôi khi, ráy tai tích tụ trong ống tai, tạo thành nút bịt kín một phần hay toàn ống tai. Ráy tai chất màu vàng, nâu hoặc đỏ đậm nếu ráy tai bị ướt hoặc màu đen nếu ráy tai cứng và khô (phổ biến ở những người lớn tuổi). Nếu ống tai chỉ bị tắc nghẽn một phần, bệnh nhân sẽ nghe bình thường hoặc chỉ bị nghe kém nhẹ. Nếu ống tai bị tắc nghẽn hoàn toàn, bệnh nhân chắc chắn sẽ không nghe được. Không được kiểm tra sức nghe hoặc gắn thiết bị trợ thính khi bác sĩ chưa lấy ráy tai ra khỏi tai bệnh nhân.

Ráy tai phủ màng nhĩ rất khó di chuyển ra phía ngoài và dễ gây ra nghe kém trước khi chúng được các bác sĩ lấy ra khỏi tai.

Dị ứng da hoặc viêm da làm cho tai ngoài ngứa và đau. Da của ống tai ngoài trở nên đỏ và sưng nề. Tình trạng này sẽ không gây nghe kém trừ khi bị sưng nhiều bịt kín ống tai. Có thể thực hiện các test đo chức năng tai nếu chỗ sưng không bịt kín ống tai.

Viêm tai ngoài là sự nhiễm trùng làm sưng nề các thành của ống tai ngoài. Viêm tai ngoài sẽ không gây nghe kém nếu chỗ sưng không bịt kín ống tai.

Polyps (khối u) là các mô phát triển ra khỏi một bề mặt. Khi bệnh nhân có bất kỳ khối u hoặc xương phát triển bất thường thì bệnh nhân nên tới gặp bác sĩ.

Xẹp ống tai ngoài liên quan tới quá trình lão hóa, là các mô xung quanh ống tai bị suy nhược và sa xuống làm cho thành ống tai bị sụp. Phần vạt mô có thể bịt kín một phần ống tai hoặc bịt kín hoàn toàn ống tai. Để quan sát ống tai trong trường hợp này có thể nhấc vành tai lên xuống.

Thủng hoặc rách màng nhĩ: do nhiễm trùng tai, dị vật tai, gãy xương tai, gần tiếng nổ lớn hoặc do bị đánh vào tai. Các lỗ thủng nhỏ làm giảm độ nhậy nghe khoảng 10-15 dB. Các lỗ nhỏ thường lành trong khoảng một vài tuần. Các lỗ lớn hơn đòi hỏi phải phẫu thuật vá màng nhĩ, để bịt lỗ thủng.

Tai bị chảy nước, máu, mủ… dù có mùi hay không có mùi cũng phải yêu cầu bệnh nhân tới găp bác sĩ.

Các chấm đơn trông giống như một lỗ, nhưng chúng phản chiếu ánh sáng từ ống soi tai, giống như gương. Những chấm đơn này là các lỗ thủng đã lành và chỉ là một lớp dày. Chúng cũng được gọi là”màng gương”.

Một khối u hay cholesteatoma xảy ra ở tai giữa, đôi khi phá vỡ phần trên của màng nhĩ, xâm lấn vào ống tai ngoài. Nếu bệnh nhân có những triệu chứng này nên tới gặp bác sĩ ngay.

Ống tai ngoài rộng sau phẫu thuật tai. Những người này thường không còn màng nhĩ hoặc chuỗi xương con trong tai giữa. Da của ống tai có thể rất nhạy cảm. Nếu bệnh nhân không có màng nhĩ thì cần có sự tư vấn và đồng ý của bác sĩ trước khi gắn máy trợ thính.

Thông thường, khi lỗ thủng của tai lành lại, hoặc tai bị nhiễm trùng tái đi tái lại màng nhĩ sẽ bị sẹo. Điều này hạn chế sự chuyển động của màng nhĩ và có thể gây nghe kém dẫn truyền nhẹ.

Xơ nhĩ (Tympanosclerosis): Mô nhĩ bị thoái hóa do tích tụ calcium có màu trắng đục như phấn

Dị vật trong ống tai bao gồm từ bông ráy tai, cục gôm, côn trùng, hạt lúa mầm đến những thứ không rõ tên loại.