Tại sao phải cải cách tư pháp

Chủ nhật, 28/02/2016 20:21

Sự cần thiết cải cách tư pháp

[NTO] Hệ thống các cơ quan Tư pháp của Nhà nước ta được thiết lập từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Trong quá trình phát triển, các cơ quan Tư pháp đã trải qua một số lần cải cách nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 22-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy Tư pháp; đến khi công cuộc đổi mới đất nước bắt đầu và kể từ khi có Hiến pháp năm 1992, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết liên quan trực tiếp đến đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp.

Ngày 2-1-2002, Bộ Chính trị [khóa IX] đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới”. Sau hơn 3 năm thực hiện, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, với mục tiêu xác định rõ là “xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động Tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

1. Điều 1, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 xác định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đòi hỏi phải có một hệ thống thiết chế về chính trị và pháp lý để khẳng định sự độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình phù hợp với thông lệ quốc tế. Những văn bản pháp luật và các hoạt động khác để khẳng định nội dung này luôn đòi hỏi phải được xây dựng trên một nền tảng pháp lý vững vàng.

2. Khoản 1, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 xác định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến một Nhà nước lấy pháp luật làm nền tảng để quản lý xã hội, hệ thống pháp luật của Nhà nước đó phải luôn luôn được hoàn thiện để bảo đảm tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một Nhà nước kiểu mới, đó là một Nhà nước mà việc tôn trọng giá trị nhân văn của con người phải song hành với đề cao ý thức, sự tôn trọng pháp luật. Các cơ quan Tư pháp là công cụ rất quan trọng trong việc bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân nên ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải cải cách Tư pháp để đạt mục tiêu “xây dựng nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” càng phải được thực hiện nhiều hơn, tốt hơn.

3. Cải cách Tư pháp là một bộ phận trong tổng thể cải cách bộ máy Nhà nước, có quan hệ mật thiết với cải cách hành chính và không thể tách rời với công cuộc xây dựng hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cải cách Tư pháp cần phải tiến hành một cách sâu sắc và toàn diện để đáp ứng yêu cầu được xác định tại Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013 là “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Vì vậy, cải cách Tư pháp không thể tách rời với quá trình xây dựng một Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; cải cách Tư pháp càng có nhiệm vụ quan trọng hơn là góp phần cùng với cả hệ thống chính trị để thực hiện những quy định, thể chế về cơ chế “kiểm soát quyền lực” trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi cải cách Tư pháp phải được tiến hành trên diện rộng nhưng phải hết sức thận trọng và có sự lựa chọn từng vấn đề phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của từng thời kỳ phát triển đất nước.

4. Khoản 1, Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền Tư pháp”. Đây là một nội dung mới được ghi nhận trong Hiến pháp về “thực hiện quyền Tư pháp”. Chúng ta đều biết, các cơ quan Tư pháp đều là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân. Hoạt động của Tòa án trong hệ thống các cơ quan Tư pháp đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định rõ “hoạt động Tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Có thể nói từ khi thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW đến Nghị quyết số 49-NQ/TW và hiện nay, vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đã được khẳng định rõ nét hơn. Cùng với sự phát triển của các cơ quan Tư pháp, hoạt động xét xử của Tòa án luôn được coi trọng để góp phần hoàn thiện thể chế pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cải cách Tư pháp đòi hỏi cán bộ cơ quan Tư pháp cũng như cán bộ ngành Tòa án phải luôn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phụng công thủ pháp; chí công vô tư”. Làm được điều ấy mới xây dựng được nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh và góp phần bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa như mục tiêu cải cách Tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW.

Từ những nội dung nêu trên, cải cách Tư pháp phải được cả hệ thống chính trị và mọi người dân quan tâm thực hiện; trong đó, các cơ quan Tư pháp phải làm nòng cốt và hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân phải được xem là trọng tâm…

Phạm Văn A
Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”, những kết quả đạt được về nhiều mặt đã tạo nên một số tiền đề và điều kiện cần thiết cho những cải cách cơ bản, sâu rộng hơn trong thời gian tới. Cùng với việc đổi mới nhận thức về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công cuộc cải cách tư pháp nói chung cũng như cải cách tư pháp hình sự nói riêng cũng bước sang giai đoạn nước rút, đòi hỏi phải có sự cải cách quyết liệt và đột phá, nhằm tạo ra những biến đổi về chất trên tất cả các phương diện nhận thức lý luận, thể chế, tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp. Mục tiêu cải cách tư pháp nói chung và tư pháp hình sự nói riêng trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó cải cách tòa án và hoạt động xét xử là trung tâm của cải cách tư pháp với khâu đột phá là mở rộng tranh tụng dân chủ trong xét xử. Để thực hiện tốt công tác cải cách tư pháp hình sự hiện nay, tác giả xin nêu một số ý kiến, quan điểm cá nhân như sau: 1. Cải cách tư pháp hình sự phải đáp ứng yêu cầu ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kip thời, nghiêm minh các loại tội phạm. Suy cho cùng, mục đích tồn tại của tố tụng hình sự chính là vấn đề phát hiện tội phạm và xử lý tội phạm. Bộ máy các cơ quan tiến hành tố tụng, các thủ tục tố tụng được bố trí sắp xếp, kiện toàn cũng là để thực hiện tốt mục tiêu này. Thời gian qua: thực hiện chủ trương cải cách tư pháp đề ra trong các Nghị quyết của Đảng, chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ phát hiện tội phạm đạt cao [trên 70%], trong đó án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt gần 95% số vụ phạm tội xảy ra, việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội được hạn chế một cách căn bản. Song, trên thực tế: vẫn còn một số lượng vụ án hình sự chưa được phát hiện và đưa ra xử lý, tình hình tội phạm tiếp tục có những diễn biến phức tạp, số vụ phạm tội tăng đáng kể, với tính chất. thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, đối tượng phạm tội ngày càng đa dạng, xuất hiện ngày càng nhiều sự móc nối giữa đốt tượng phạm tội ở trong nước với các tổ chức tội phạm ở nước ngoài v.v. Tình hình này đặt ra yêu cầu đối với công cuộc cải cách thủ tục tố tụng hình sự phải tạo ra các quy trình, thủ tục tố tụng thật sự khoa học, hợp lý để ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải không ngừng được bồi dưỡng kiến thức pháp luật: kỹ năng nghiệp vụ, tăng cường tính chuyên nghiệp, tính nhanh nhạy. được đầu tư tối tân về cơ sở vật chất, kỹ thuật để đáp ứng

ngày càng cao yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

2. Cải cách tư pháp hình sự cần phải đi đôi với việc bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Là quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, tố tụng hình sự phải đảm đương vai trò là công cụ sắc bén và đầy hiệu lực của Nhà nước và xã hội trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những người có hành vi phạm tội. Tuy nhiên, mục tiêu đó không cho phép đạt được bằng mọi giá. Đặc biệt, trong điều kiện toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đặt quyết tâm chính trị đẩy mạnh quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thì yêu cầu đối với quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải hết sức chú trọng đến mục tiêu đề cao công lý, không làm oan người vô tội, bảo vệ đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân, phải xem đây là yêu cầu tối quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án. Thời gian qua, về mặt xây dựng và hoàn thiện thể chế, chúng ta đã tiếp tục ghi nhận những nguyên tắc pháp lý tiến bộ của văn minh pháp lý nhân loại và làm sâu sắc thêm những nguyên tắc này, đó là nguyên tắc bảo đảm quyền sống tự do và an ninh cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, quyền được bình đẳng trước toà án, được xét xử công bằng, công khai bởi một toà án độc lập, không thiên vị và được coi là vô tội cho đến khi hành vi phạm tội được chứng minh theo pháp luật tại một phiên toà công khai và công bằng . .; đã có những điều chỉnh khá cơ bản về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa để tăng cường cho các chủ thể này các cơ hội tham gia tích cực hơn, đầy đủ hơn vào hoạt động tố tụng hình sự, bổ sung các quy định đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. . . Trong quá trình giải quyết vụ án các yêu cầu về tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng đã được quán triệt và triển khai thực hiện trên thực tế, chủ trương "nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà" được áp dụng và bước đầu tạo không khí dân chủ trong các phiên toà. Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Tình trạng vi phạm các quyền của công dân trong hoạt động điều tra, bắt tạm giữ, tạm giam vẫn còn xảy ra ở một số nơi, có vụ việc gây nhiều bức xúc trong dư luận. Chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà" chưa đi vào chiều sâu và chưa thực sự phát huy hiệu quả. Tư duy trong giải quyết vụ án hình sự vẫn đặt sự quan tâm nhiều hơn ở nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, nhiệm vụ đề cao công lý bảo vệ quyền con người, quyền công dân vẫn chưa giành được vị trí ưu tiên bảo vệ đúng như tầm quan trọng của nó 5 …. Vì vậy, cải cách tư pháp hình sự phải đáp ứng yêu cầu tăng cường hơn nữa tính

dân chủ, bảo đảm tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong

thực tiễn giải quyết vụ án hình sự phải đứng trên quan điểm đó để chứng minh tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. 3. Bảo đảm sự công bằng, bình đẳng thực sự giữa các bên [bên buộc tội và bên gỡ tội] trong suốt quá trình đi tìm sự thật của vụ án Công bằng, bình đẳng luôn là yêu cầu quan trọng của quá trình giải quyết vụ án hình sự, được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.Một nền tư pháp tiến bộ là nền tư pháp phải bảo đảm cho các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa có các cơ hội, điều kiện như nhau trong việc bày tỏ quan điểm và bảo vệ quan điểm của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Sự đấu tranh, vận động giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa càng dân chủ, bình đẳng bao nhiêu thì quá trình tìm kiếm chân lý càng được bảo đảm bấy nhiêu. Thời gian qua: về mặt xây dựng và hoàn thiện thể chế, chúng ta đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa hiệu quả hơn; người bào chữa có quyền tham gia tố tụng sớm hơn, các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ từng bước được mở rộng. Tuy nhiên, xét cả trên bình diện pháp lý và thực tiễn, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được xem là một bên trong quan hệ tố tụng, thậm chí nhiều trường hợp, gần như là đối tượng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tính thụ động và bị lệ thuộc của người bào chữa vào các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn là điểm dễ nhận thây trong tố tụng hình sự nước ta. Người bào chữa chưa được đảm các điều kiện cần thiết để trở thành một bên bình đẳng với bên buộc tội trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án v.v. Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, đến yêu cầu xây dựng một nền tư pháp dân chủ, công bằng nghiêm minh, bảo vệ công lý, ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo và đặc biệt là đã không tạo ra được cơ chế pháp lý hữu hiệu để thúc đầy các cơ quan tiến hành tố tụng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trước sự đối trọng, phản biện tích cực từ bên bào chữa. Xuất phát từ yêu cầu đó, quá trình cải cách tư pháp hình sự phải tạo ra các quy trình, thủ tục tố tụng hợp lý khoa học nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, tạo các cơ hội, điều kiện bình đẳng giữa các bên trong việc đưa ra chứng cứ, bảo vệ quan điểm của mình, bảo đảm cho các bên phản ánh được hết quan điểm lập luận của mình với toà án một cách trực tiếp. 4. Cần phải xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng cho phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trước dân, trước Nhà nước Phân định đúng đắn, chính xác quyền, nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của tố tụng hình sự, giúp cho các hoạt động tố tụng được tiến hành có tính chuyên nghiệp cao tăng cường trách nhiệm của các chủ thể trong

việc thực hiện chức năng tố tụng được giao. Xuất phát từ nguyên tắc này, cải cách

thủ tục tố tụng hình sự phải hướng đến việc phân định hợp lý quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, loại bỏ các quy định mâu thuẫn, chồng lấn chức năng tố tụng; loại bỏ sự phối hợp giữa các chức năng tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là sự phổi hợp giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Bổ sung các biện pháp chế tài áp dụng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi phạm các quy định tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Mọi thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra cho cá nhân tổ chức trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải được bồi thường theo pháp luật. Thực thi một nền tư pháp nghiêm minh, trách nhiệm trước dân trước Nhà nước… 5. Xây dựng và từng bước nâng cao chất lượng hệ thống tố tụng hình sự theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện. Công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện, bảo đảm quyền tiếp cận, quyền tham gia của công dân luôn là đòi hỏi đối với quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Là một dạng hoạt động quyền lực nhà nước [quyền tư pháp], hoạt động tư pháp hình sự một mặt phải bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chồng tội phạm, đồng thời quá trình vận hành các thủ tục tố tụng hình sự phải đáp ứng yêu cầu về tính công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện, dễ tiếp cận đối với người dân. Xuất phát từ yêu cầu này việc cải cách tư pháp hình sự cần loại bỏ những thủ tục rườm rà, phức tạp, gây phiền hà cho người dân tiếp cận công lý, tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án; bổ sung các nội dung nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của các quy định, thủ tục tố tụng hình sự… Không thể vì lý do cần giữ bí mật điều tra mà gây khó khăn, tạo nên những cách trở giữa người dân với quá trình giải quyết vụ án. 6. Bảo đảm và tăng cường hiệu lực, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng hình sự Trong Nhà nước pháp quyền, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là một hoạt động tất yếu và luôn giữ vị trí đặc biệt trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho các quyền đó làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, không vượt khỏi phạm vi thẩm quyền, chức năng đã được xác định. Xã hội càng phát triển quá trình dân chủ hoá trong xã hội càng được mở rộng thì yêu cầu kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước càng cao. Hoạt động tư pháp hình sự có nhiệm vụ xem xét, đưa ra các phán quyết về tính đúng hay sai là tội phạm hay không phải là tội phạm, hình phạt áp dụng, khôi phục lại trật tự xã hội đã bị xâm phạm, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của công dân, của tập thể, của quốc gia và xã hội. Đồng thời, quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó, pháp luật trao cho các cơ quan tư pháp thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế tố tụng như biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam . . . như vậy, hoạt động tư pháp hình sự mang trong nó những thẩm quyền mạnh mẽ và có khả năng ảnh hưởng đến các quyền cơ bản nhất của con người như quyền tự do, quyền sống. Xuất

phát từ các đặc điểm đó, hoạt động tư pháp hình sự cần và phải chịu sự kiểm tra,

giám sát chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát khác nhau. Chính sự kiểm tra giám sát chặt chẽ sẽ là điều kiện bảo đảm cho phán quyết của tư pháp là một giá trị không gì có thể thay thế được, bảo đảm tính hiệu lực thi hành của các phán quyết tư pháp. Yêu cầu tăng cường các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp đã được đặt ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết 08-NQ/TW nhấn mạnh: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp . . Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật. . . Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp. Công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc chấp hành pháp luật trong lĩnh việc bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án và giám sát việc ban hành các văn bản pháp luật về lĩnh vực tư pháp".Nghị quyết 49-NQ/TW tiếp tục yêu cầu: "Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiêm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp. . . Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp…”. Vì vậy, cải cách tư pháp hình sự phải tiếp tục hướng tới việc xây dựng các cơ chế giám sát đồng bộ, hợp lý và có hiệu lực. Các cơ chế kiểm tra, giám sát được xây dựng đồng bộ, hợp lý sẽ luôn là một trong những bảo đảm cho guồng máy tố tụng tư pháp hoạt động hết công suất, đồng thời tránh được tình trạng lạm quyền, làm ảnh hưởng đến quyền công dân mà trực tiếp nhất là quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Mở rộng khả năng tham gia của người bào chữa, cá nhân, các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội vào hoạt động giải quyết vụ án nhằm tăng cường các kênh giám sát đối với hoạt động tư pháp. 7. Cải cách tư pháp hình sự phải đáp ứng yêu cầu đổi mới chính sách hình sự trong thời gian tới. Thực chất mối quan hệ giữa Luật Hình sự với Luật tố tụng Hình sự là mối quan hệ giữa luật nội dung và luật hình thức. Trong mối quan hệ này, nội dung có ý nghĩa quyết định hình thức. Nghị quyết 49-NQ/TW đặt ra nhiều yêu cầu đối với việc hoàn thiện, đổi mới chính sách hình sự như: giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm, quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế v. v. Do vậy, cải cách thủ tục tố tụng hình sự phải đáp ứng kịp thời những thay đổi về chính sách hình sự

trong thời gian tới.

Võ Thị Tám

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Thể dục, Thể thao. Sinh thời, Chủ tịch Hồ …

Video liên quan

Chủ Đề