Thành phố buôn ma thuột nằm trên cao nguyên nào năm 2024

Đắk Lắk là cao nguyên rộng lớn nhất nằm ở trung tâm Tây Nguyên, theo các nguồn tài liệu, nhiều bộ chính sử và tư sử của nước ta, vùng đất Tây Nguyên trong đó có Đắk Lắk đã được biết đến với những tên gọi khác nhau.

Sách Đại Nam thực lục cho biết: “Nước Thủy xá, Hỏa xá xưa gọi là Nam Bàn, là dòng dõi Chiêm Thành, thời Lê Thánh Tông đánh được Chiêm thành (năm 1471) lấy con cháu Vua nước ấy gọi là nước Nam Bàn, ở phía tây núi Thạch bi” (Đại Nam thực lục chính biên, NXB khoa học XH – năm 1970 tập 23 trang 145,146).

Sách Đại Nam liệt truyện (mục nước Thủy xá, Hỏa xá) cũng chép: “Thủy xá, Hỏa xá ở phía trên nước Nam Bàn, thời Lê Thánh Tông đánh được nước Nam Bàn, cắt đất từ núi Thạch Bi trở về phía Tây ban cho, có hơn năm mươi thôn lạc, trong nước có núi Bà Nam rất cao, Thủy vương ở phía đông núi, Hỏa vương ở phía Tây núi” (Đại Nam liệt truyện. NXB Thuận Hóa, Huế 1993 tập 2 trang 586).

Trên cơ sở những tư liệu lịch sử, dười thời triều Nguyễn ghi chép, cho chúng ta được biết Tây Nguyên trước khi nằm dưới tầm kiểm soát của thực dân Pháp, là địa bàn của hai nước Thủy xá và Hỏa xá dưới triều Nguyễn (1802 – 1884). Ngược dòng thời gian, trước đó từ năm 1150, người Chiêm Thành đã từng tiến quân chiếm đóng một phần đất Tây Nguyên, theo kết quả của những đợt khai quật khảo cổ học gần đây, cho ta thấy ảnh hưởng của người Chăm đã lan tận đến thung lũng sông Ba và khu vực người Gia Rai, Êđê, các khu vực Thủy xá, Hỏa xá và cả vùng Đắk Lắk sau này. Những tháp Yan Mum, Drang lai gần Cheo reo, các Ra sung ba tau (thùng lớn để làm bể rửa) vẫn còn nguyên ở Buôn Ma Thuột, đông Plâyku, tường thành ở Ea H’leo, còn nhiều di tích rõ nét, đó là những dẫn chứng cụ thể của một thời người Chăm sống ở Tây Nguyên, ngoài ra còn có một con đường do người Chăm mở ra để tiện việc hành quân và kiểm soát vùng Tây Nguyên đó là con đường đi từ Kon Tum xuống Quảng Nam còn bỏ dở.

Như vậy, vùng đất Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng có từ lâu đời, nhất là từ sau cuộc chiến tranh mở đất về phía Nam của Lê Thánh Tông (năm 1471) đã nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước quân chủ Việt Nam, và cũng từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, về danh nghĩa là Vua hai nước Thủy xá và Hỏa xá nhưng thực tế đã phần nào chịu ảnh hưởng của những chính sách cai trị của Vua chúa Việt Nam, nhất là từ thời Viên trấn thủ Quang Nam, Bùi Tá Hán (cuối thế kỷ 16) trở đi đến thời dưới triều Nguyễn thế kỷ XIX (1802-1884). Nhận thấy vị trí trọng yếu về chính trị, quân sự của vùng đất Đắk Lắk – Tây Nguyên, đó là vùng đệm giữa nước Việt Nam – Đại Nam với Lào, Cao Miên, Xiêm la (Thái Lan) nên các Vua Nguyễn nhất là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã để tâm đến nhiều hơn. Chính sử triều Nguyễn đã chứng minh cụ thể về quan hệ bang giao thời kỳ này, trong đó các viên sứ bộ của hai nước đi lại nhiều lần, đã chứng minh sự quan tâm đặc biệt của các Vua Nguyễn đối với vùng đất Đắk Lắk – Tây Nguyên.

Nhìn chung, lúc bấy giờ khu vực Tây Nguyên trong đó có Đắk Lắk còn là một vùng rất xa lạ và bí hiểm đối với người Kinh, ít ai dám lui tới vì các ngôn ngữ, khác phong tục tập quán, chính vì vậy mà người Pháp đã chú ý đến Tây Nguyên, coi Tây Nguyên là mục tiêu để những tên gián điệp khoác áo giáo sĩ đặt chân lên mảnh đất này. Sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ từ 1862 và ba tỉnh Miền Tây năm 1867, bằng việc tổ chức các đoàn thám hiểm để tìm cách xâm nhập vào vùng nội địa của Tây Nguyên và ngày 22-1-1891 đến được Bản Đôn loại trừ được quân đội Xiêm, kiểm soát được toàn khu vực.

Ngày 3-10-1893 một Hiệp ước Pháp – Xiêm được ký kết, thừa nhận quyền của nước Pháp trên phần đất nằm ở tả ngạn sông Mê Kông. Trong đó có Cao Nguyên (gọi là Hin truland).

Ngày 1-6-1895 thống sứ Lào là Boulloche chia lãnh thổ Lào thành hai vùng riêng biệt, một gọi là Thượng Lào đóng trụ sở tại Luông Prabang, và một gọi là Hạ Lào đóng trụ sở tại Kong của Stung Streng, Cao Nguyên Hin truland được sát nhập vào 3 tỉnh là Strung Streng trong đó địa bàn Đắk Lắk, tỉnh Alopen và tỉnh Saravane.

Ngày 16-10-1898 Khâm sứ Trung kỳ Bovelloche buộc triều đình Huế sắp đặt vùng Tây Nguyên dưới sự đặc trách của người Pháp.

Ngày 31-1-1899 toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định thành lập một cơ sở hành chính tại Bản Đôn, trên bờ sông Sêrêpôk trực thuộc tỉnh Strung Streng với mục đích thể hiện quyền cai trị của nước Pháp trên thung lũng này và để kiểm soát người dân tộc Djarai cũng như tạo sự dễ dàng cho việc buôn bán giữa Lào và Trung kỳ.

Ngày 2-11-1899 viên quản nhiệm Bovrglocs lập ra hạt đại lý khu vực Bản Đôn với mục đích làm thí điểm trong công cuộc bình định Cao Nguyên trung phần tìm cách thu phục đồng bào Êđê, M’nông (nhóm Kpă và Bih) vùng hạ lưu sông Krông Ana và Krông Nô, nhưng tất cả ý đồ đó đều thất bại.

Ngày 22-11-1904 Hội đồng tối cao toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách Đắk Lắk khỏi địa bàn nước Lào và đặt thành một tỉnh thuộc quyền giám sát và quản trị Khâm sứ Trung Kỳ (sứ An Nam) cũng thời gian này (ngày 22-11-1904) tỉnh Đắk Lắk được thành lập nằm trên đại bàn Miền Tây các tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, lấy tỉnh lỵ là Buôn Ma Thuột.

Như vậy với Nghị định ngày 22-11-1904, Đắk Lắk chính thức trở thành một trong 20 tỉnh, thành phố thuộc Trung kỳ, về địa giới hành chính tương đối ổn định cho đến những năm về sau (1954).

*Sau năm 1904 đến trước năm 1975:

Ngày 9-2-1913, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Kon Tum (trước là đại lý Kon Tum trực thuộc tòa công sứ Qui Nhơn), bao gồm đại lý Kon Tum tách khỏi tỉnh Bình Định, đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và đại lý Đắk Lắk (tỉnh Đắk Lắk bị giải thể hạ xuống làm một đại lý) thuộc tỉnh Kon Tum, từ đó tỉnh Đắk Lắk không còn nữa, nhưng địa danh vẫn còn.

Đến ngày 2-7-1923, toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách Đắk Lắk khỏi tỉnh Kon Tum và thành lập tỉnh riêng dưới quyền một viên công sứ tên là Sabalier, làm công sứ đầu tiên của tỉnh Đắk Lắk sau khi tái lập lại. Đến ngày 30-5-1930 địa bàn tỉnh Đắk Lắk được chia thành nhiều tổng (Secteus), trong đó có tổng tỉnh lỵ Buôn Ma Thuột.

Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, nước ta tạm thời bị chia làm hai miền Nam Bắc, chính quyền Sài Gòn chia trung phần thành Cao Nguyên trung phần và Trung Nguyên trung phần. Đắk Lắk thuộc Cao Nguyên trung phần. Trong 6 tỉnh thuộc Cao Nguyên trung phần thì Đắk Lắk có số quận nhiều nhất 5/20, số xã đứng thứ hai sau tỉnh Kon Tum 113/120.

Đến ngày 2-7-1958, Đắk Lắk có 5 quận gồm quận Buôn Ma Thuột, Lạc Thiện, M’Drak, Dak Song, Buôn Hồ.

Đến trước năm 1975, Đắk Lắk gồm có 4 quận Buôn Ma Thuột, Lạc Thiện, Buôn Hồ, Phước An. Tỉnh lỵ là thị xã Buôn Ma Thuột.

* Từ sau năm 1975 đến nay, đất nước thống nhất, tỉnh Đắk Lắk có những thay đổi như sau:

Tháng 2-1976 chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định giải thể khu và hợp nhất các tỉnh ở miền Nam, trong đó có tỉnh Đắk Lắk gồm cả tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Quảng Đức cũ.

Đến năm 1988, Đắk Lắk có diện tích tự nhiên là 19.800 km2, dân số là 974.000 người, bao gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 15 huyện: huyện Dak R’lấp, Dak Nông, Dak Mil, Ea Súp, Cư M’gar, Krông Ana, Krông Nô, Krông Pak, Ea Kar, M’Drak, Krông Bông, Lak, Ea H’leo, Krông Buk, Krông Năng. Những năm về sau thành lập thêm huyện Cư Jút (16-9-1990); huyện Buôn Đôn (7-10-1995), Dak Song (21-6-2001).

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đến ngày 26-11-2003 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ra Quyết định số 22/2003/QH XI, chia tách Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Hiện nay, tỉnh Đắk Lắk có 1 thành phố Buôn Ma Thuột, 1 thị xã Buôn Hồ và 13 huyện là: Ea Súp, Buôn Đôn, Cư M’gar, Krông Buk, Ea H’leo, Krông Năng, M’Drak, Ea Kar, Krông Buk, Krông Bông, Krông Ana, Lak, Cư Kuin. 3 – Về lịch sử địa danh Buôn Ma Thuột:

Buôn Ma Thuột vốn có bề dày lịch sử từ lâu đời, nhiều tư liệu từ trước đến nay đã cho thấy vùng đất này tồn tại từ rất sớm. Dưới góc độ nghiên cứu về khảo cổ học Buôn Ma Thuột ít ra đã có 4.000 năm tuổi, điều này được tư liệu khảo cổ học khẳng định qua những dấu tích cư trú, làm nông của cư dân thời tiền sử. Qua tư liệu văn hóa tộc người đã có một Buôn Ma Thuột vài trăm năm tuổi và qua tư liệu sử học, đến nay Buôn Ma Thuột vừa tròn 105 năm hình thành và phát triển.

Buôn Ma Thuột dưới thời Pháp thuộc là Trung tâm của tỉnh Đắk Lắk, cũng là trung tâm của vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, đầu mối của nhiều đường giao thông.

Sau khi tiến hành xâm lược và bình định được vùng Tây Nguyên, thực dân Pháp bắt tay vào việc xây dựng bộ máy thống trị. Sau khi ký thành lập tỉnh Đắk Lắk (22-11-1904), đồng thời chuyển tỉnh lỵ từ Bản Đôn về Buôn Ma Thuột. Lúc mới thành lập, chỉ có cấp tỉnh, còn ở cấp dưới vẫn là các buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ.

Địa danh Buôn Ma Thuột là tên của một buôn đồng bào Êđê Kpă, vùng đất này vào cuối thế kỷ XIX chỉ có một buôn với khoảng năm chục nhà dài, mỗi nhà có từ 30 đến 40 người do người Tù trưởng Ama Thuột cai quản nằm bên dòng suối Ea Tam. Đến những năm đầu của thế kỷ XX, Buôn Ma Thuột không còn là một buôn đơn lẻ nữa mà đã quy tụ phát triển thêm hàng chục buôn khác. Tuy nhiên, Buôn Ma Thuột vẫn là một buôn lớn, trung tâm của cả vùng lúc bấy giờ và do Tù trưởng Ama Thuột, một người có thế lực và uy tín cai quản. Tên gọi Buôn Ma Thuột cũng bắt nguồn từ đó. Buôn Ma Thuột tức là làng của Ama Y Thuột – làng của cha Y Thuột (tiếng Êđê: Ama có nghĩa là cha, Y Thuột là chỉ người con trai tên Thuột – Buôn Ma Thuột là tên gọi tắt: làng của cha Y Thuột).

Sau gần một năm trở thành tỉnh lỵ của Đắk Lắk, Buôn Ma Thuột đã có nhiều thay đổi và được thể hiện trên tấm bản đồ Buôn Ma Thuột năm 1905. Trong nội thị đã có tòa công sứ, văn phòng làm việc, trại lính, nhà tù, bệnh xá, trường học…

Từ thời Sabachiê làm công sứ tỉnh Đắk Lắk (1923), thực dân Pháp đã đẩy mạnh việc xây dựng Buôn Ma Thuột để phục vụ cho chính sách thống trị lâu dài của chúng ở vùng đất này. Với những thay đổi to lớn nên ngày 5-6-1930, Khâm sứ Trung kỳ đã ký nghị định thành lập thị xã Buôn Ma Thuột.

Trưởng làng do công sứ phê duyệt và được hưởng phụ cấp.

Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Buôn Ma Thuột đã không ngừng phát triển, lớn mạnh về mọi mặt, từng bước trở thành một đô thị trung tâm của tỉnh Đắk Lắk và có vai trò quan trọng về nhiều mặt đối với cả nước nói chung và khu vực Tây Nguyên nói riêng.

Ngày 21-1-1995, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ra Quyết định số 08-CP thành lập thành phố Buôn Ma Thuột, đây là một dấu ấn quan trọng về sự trưởng thành và phát triển của Buôn Ma Thuột nói riêng và tỉnh Đắk Lắk nói chung. Từ một đô thị loại IV năm 1975, Buôn Ma Thuột đã phát triển thành đô thị loại III năm 1995, được công nhận đô thị loại II năm 2005. Đầu năm 2010, Buôn Ma Thuột được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đắk Lắk. Đó là thành quả của sự phấn đấu không ngừng của Đảng bộ, quân và dân thành phố Buôn Ma Thuột trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời sự ghi nhận, phần thưởng xứng đáng của Đảng, Nhà nước về những đóng góp không nhỏ của đồng bào các dân tộc Buôn Ma Thuột nói riêng, Đắk Lắk nói chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.%

Cao nguyên Đắk Lắk có độ cao là bao nhiêu?

Phía Bắc cao gần 800 m, phía Nam 400 m, thoải dần về phía Tây còn 300 m. Cao nguyên này có địa hình khá bằng phẳng, độ dốc trung bình 3-80. Phần lớn diện tích cao nguyên này là đất đỏ bazan màu mỡ rất thích hợp với việc phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su... vì vậy hầu hết đã được khai thác sử dụng.nullCao nguyên Đắk Lắk – Wikipedia tiếng Việtvi.wikipedia.org › wiki › Cao_nguyên_Đắk_Lắknull

thành phố Buôn Ma Thuột có độ cao bao nhiêu?

536 mThành phố Buôn Ma Thuột / Độ caonull

Buôn Ma Thuột là vùng gì?

Thành phố Buôn Ma Thuột nằm ở khu vực trung tâm của Tây Nguyên, độ cao trung bình 500 m, cách Hà Nội khoảng 1300 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, cách Đà Nẵng khoảng 647 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Krông Pắc. Phía đông nam giáp huyện Cư Kuin. Phía tây giáp huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.nullBuôn Ma Thuột – Wikipedia tiếng Việtvi.wikipedia.org › wiki › Buôn_Ma_Thuộtnull

tỉnh Đắk Lắk có độ cao trung bình bao nhiêu?

Đắk Lắk có độ cao trung bình 400 - 800 mét so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh núi Chư Yang Sin có độ cao 2442 m so với mực nước biển, đây cũng chính là đỉnh núi cao nhất ở Đắk lắk.nullTỉnh Đắc Lăkvukehoach.mard.gov.vn › atlas › prov › daklak › daklaknull