Ý nghĩa của bánh chưng và bánh tét

Những chiếc bánh chưng dân dã luôn là hương vị ẩm thực đặc trưng của người Việt mỗi dịp năm mới. Món ăn này ẩn chứa nhiều ý nghĩa văn hóa, tinh thần độc đáo và thú vị.

Bên cạnh bánh dày, bánh chưng là hương vị không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết ở Việt Nam. Mỗi dịp xuân về, hầu hết gia đình đều quây quần gói bánh chưng và cố gắng kịp hoàn tất món ẩm thực độc đáo này trước 30 Tết. Khoảng thời gian cả nhà chờ bánh chín bên bếp lửa hồng cũng là những phút giây linh thiêng, ấm áp để gợi nhắc nhiều câu chuyện đẹp trong năm.

Trong tâm thức của người Việt, bánh chưng có vị thế nguồn cội văn hóa đặc biệt. Chiếc bánh được gói bằng lá dong với hình vuông nhỏ nhắn không đơn thuần là một món ăn mà còn trở thành nét đẹp văn hóa của những người con đất Việt. Hương vị giản dị này gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời và mang nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh.

Hương vị của đất trời

Bánh chưng là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại. Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, mục Truyện bánh chưng chép rằng vua Hùng thứ 6 sau khi phá xong giặc Ân, mới hội họp các vị quan Lang, công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.

Các vị quan Lang thi nhau lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý làm lễ vật. Duy chỉ có Lang Liêu, vị công tử thứ 18, nghèo khó nhất trong các vị quan Lang, không tìm được sản vật quý hiếm. Chàng nằm mơ thấy thần nhân mách bảo nên đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra bánh chưng, bánh dày làm lễ vật.

Bánh chưng được tạo ra từ những nguyên liệu truyền thống gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong. Ảnh: Lê Huy Hoàng Hải.

Chiếc bánh dày có hình tròn tượng trưng cho trời và bánh chưng có hình vuông tượng trưng cho đất. Lá xanh bọc ở ngoài và nhân bên trong ruột tượng trưng cho công ơn sinh thành, tình cha mẹ luôn yêu thương và đùm bọc con cái. 2 món bánh dâng lên hợp ý vua Hùng, Lang Liêu được truyền ngôi. Từ đó, bánh chưng, bánh dày trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên và các dịp lễ Tết. Món ăn cũng thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta. Đồng thời, hương vị bánh cũng thay lời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước.

Chiếc bánh gói trọn yêu thương

Bánh chưng vốn mang trong mình ý nghĩa thiêng liêng, cao quý. Do đó, món ăn này cũng đòi hỏi ở người làm sự kiên nhẫn, tỉ mỉ. Bánh muốn ngon thì người chế biến phải chuẩn bị nguyên liệu thật chu đáo. Gạo nếp phải lựa loại hạt dài, chắc mẩy, to đều và thơm mới. Đậu xanh cần được tách vỏ, màu vàng óng. Thịt heo phải có cả nạc và mỡ để khi bánh chín, phần mỡ sẽ quyện với phần nạc mềm tạo độ béo, dẻo và thơm ngon. Lá dong lựa chọn phải có màu xanh mướt, bản to và đều nhau. Ở một số địa phương, lá gói bánh cũng có thể thay thế bằng lá chuối.

Người làm phải đặt tình yêu của mình vào chiếc bánh mới có thể tạo hình vuông vắn, đẹp mắt. Ảnh: Lê Huy Hoàng Hải.

Gói bánh chưng tuy không quá khó, song người làm phải thực sự đặt tình yêu của mình vào mỗi chiếc bánh mới có thể tạo hình vuông vắn, đẹp mắt. Bánh cần được buộc bằng lạt hoặc dây kỹ lưỡng để nước không ngấm vào trong. Tuy nhiên, những người làm bánh chưng lành nghề cho biết bạn không nên nén quá chặt vì khi nấu, nếp trong bánh sẽ còn nở ra thêm. Họ cũng bật mí rằng sau khi gói xong, bánh phải luộc ngay thì mới có màu xanh nguyên.

Thời gian nấu bánh chưng có thể hơn 10 tiếng đồng hồ. Trong những phút giây ấm áp trông chờ nồi bánh, cả nhà sum họp và sẻ chia cho nhau muôn kỷ niệm diễn ra suốt một năm bận rộn. Cũng từ đây, chiếc bánh chưng không chỉ gói ghém các nguyên liệu truyền thống để tạo nên hương vị dân tộc mà còn kèm theo dư vị yêu thương, tình cảm thuận hòa của mỗi thành viên trong gia đình.

Dấu ấn ẩm thực ngày Tết của dân tộc

Tết chẳng thể là Tết nếu thiếu bánh chưng xanh. Các Vua Hùng từng ví hạt gạo, nguyên liệu chính tạo nên món bánh truyền thống này, như hạt ngọc của trời đất ban cho con người. Hạt gạo tinh khiết và an lành hơn bất kỳ sơn hào hải vị nào. Bánh chưng có thể được ăn kèm củ kiệu, dưa muối hoặc chấm nước mắm để làm tăng sự đậm đà. Thức bánh độc đáo này cũng nhờ vậy mà tồn tại một cách kỳ diệu suốt từ thời Hùng Vương đến nay. Món ăn trở thành dấu ấn ẩm thực của dân tộc, tạo nên phong vị ngày Tết quê nhà.

Bánh chưng trở thành một món ăn mang dấu ấn ẩm thực của dân tộc, tạo nên phong vị ngày Tết Việt Nam. Ảnh: Quỳnh Trang, Ngân Giang.

Hàng năm, các hội thi nấu bánh chưng thường được tổ chức, mang không khí Tết đến gần hơn với mỗi người, nhất là lớp trẻ. Ngoài ra, hình ảnh gói bánh chưng dịp năm mới cũng tạo sức hút với khách nước ngoài. Vào dịp Tết 2019, nhiều du khách quốc tế đã hội tụ tại Mũi Né [Phan Thiết, Bình Thuận] để tham dự lễ hội bánh chưng với loạt trải nghiệm thú vị. Hầu hết họ đều hào hứng khi có cơ hội tận tay làm chiếc bánh truyền thống trong dịp đón Tết Âm lịch tại Việt Nam.

Du khách quốc tế hào hứng khi có cơ hội trải nghiệm làm bánh chưng. Ảnh: Khang Trần.

Ngày nay, bánh chưng đã được bày bán sẵn ở nhiều nơi. Tuy nhiên, nhiều gia đình vẫn giữ truyền thống sum họp gói bánh vào những ngày giáp Tết. Những chiếc bánh chưng tự gói vì thế mà thơm ngon, đậm đà và ý nghĩa hơn. Tục gói bánh chưng ngày Tết cũng trở thành một nét văn hóa ẩm thực độc đáo, góp phần làm đẹp hình ảnh Việt trong mắt bạn bè quốc tế.

Học cách bài trí bữa ăn ngày Tết của người Nhật Osechi là một bữa ăn ngày Tết ở Nhật Bản gồm nhiều món ăn nhỏ, được bày biện đẹp mắt. Mỗi món ăn đều mang ý nghĩa riêng như sự trường thọ, may mắn, sung túc.

Một dịp Tết đến xuân về, người Việt Nam dù có ở đâu, đi đâu, cũng không bao giờ quên chuẩn bị bánh chưng, bánh tét trên mâm cỗ Tết cổ truyền. Có thể nói, bánh chưng, bánh tét trong tâm thức người Việt là truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, là ẩm thực đặc trưng dân tộc, là cảm giác háo hức thời thơ bé ngồi canh nồi bánh chưng ấm cúng, hay đơn giản chỉ là bữa cơm gia đình sum họp ấm áp trong những ngày đầu năm mới. Vậy sự khác nhau giữa bánh chưng và bánh tét là gì? Hãy cùng Khacnhaugiua.vn tìm hiểu ngay trong bài viết dưới đây!

1. Nguyên liệu gói bánh

Có thể nói, nhắc tới Tết cổ truyền, bánh chưng và bánh tét là hai món ăn không thể thiếu trên mâm cỗ người Việt. Sự khác nhau giữa bánh chưng và bánh tét được thể hiện ở nguyên liệu gói bánh.

Hình ảnh của bánh chưng – linh hồn ẩm thực của Tết Việt

Bánh chưng thường xuất hiện tại khu vực phía Bắc trong dịp Tết Nguyên đán. Nguyên liệu chính của bánh chưng bao gồm: 

  • Gạo nếp [hạt mẩy, đều, khi nấu thơm dẻo]
  • Đậu xanh [chọn loại đỗ xanh tiêu, hạt nhỏ, ruột vàng]
  • Thịt lợn [chọn loại thịt 3 chỉ hoặc thịt vai sấn, không nên chọn loại thịt quá nạc]. 
  • Lá dong [nên chọn loại lá bánh tẻ [không quá già hoặc quá non] để dễ gói và giúp bánh có màu xanh đẹp.
  • Sợi lạt: nên chọn loại lạt dang, mỏng, mềm và dẻo dai

Bên cạnh bánh chưng truyền thống, người dân miền Bắc còn có những thay đổi khá thú vị về nguyên liệu. Chẳng hạn, bánh chưng có màu sắc, hương vị khác lạ như bánh chưng gấc đỏ, bánh chưng ngũ sắc, bánh chưng nếp cẩm,…

Hình ảnh bánh Tét của người Nam Bộ trong ngày tết

Đối với bánh Tét của người miền Nam, nguyên liệu làm bánh tương đối giống với bánh chưng của người miền Bắc. Điểm khác biệt là người miền Nam thường sử dụng lá chuối thay cho lá dong khi gói bánh. Thêm vào đó, rau ngót cũng được sử dụng để tạo màu bánh xanh mướt khi người Nam Bộ gói bánh tét.

2. Hình dạng bánh chưng và bánh tét

Điểm khác nhau rõ rệt nhất giúp người bình thường phân biệt được bánh chưng và bánh tét có lẽ là hình dạng của hai loại bánh này.

Cụ thể, bánh chưng có hình vuông tượng trưng cho mặt đất. Điều này được giải thích qua “Sự tích bánh chưng bánh dày” của hoàng tử thứ 18 con Vua Hùng là Lang Liêu nổi tiếng Việt Nam.

Bánh chưng có hình vuông tượng trưng cho mặt đất

Ngược lại, bánh tét của người miền Nam có hình trụ. Sở dĩ bánh tét có hình trụ là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Việt Chăm hay cũng có thể là sự kế thừa những giá trị của lớp tiền nhân đi trước để lại.  Khi người Việt bắt đầu vào khai hoang, mở rộng vùng đất phương Nam, do sự tiếp thu yếu tố tín ngưỡng của nền văn hóa Chăm, trong đó có tín ngưỡng thờ thần lúa nên các cư dân Việt sau này đã tạo ra chiếc bánh tét như ngày nay.

Bánh tét của người miền Nam có hình trụ. 

Lý do bánh tét của miền Nam có hình trụ cũng bởi thời tiết khu vực này nóng hơn miền Bắc. Việc gói bánh theo hình trụ dài dễ bảo quản hơn, tránh bị mốc ở 4 góc như bánh chưng, nếu có mốc, cũng dễ dàng xử lý hơn khi có thể cắt lát phần bị hỏng vứt đi.

3. Yêu cầu thành phẩm

Nhân đỗ và thịt nạc luôn phải cân đối ở tất cả các phần khi bánh chưng thành phẩm

Bánh chưng có hình dạng vuông vức, bọc ngoài lá xanh mướt, được chuẩn bị cầu kỳ từ lá dong, gạo nếp, thịt heo với tỷ lệ nạc mỡ vừa phải, thậm chí lạt buộc cũng phải được lựa chọn kỹ lưỡng.

Chiếc bánh chưng sau khi gói phải vuông vức, chắc tay, không cần ép mà bánh vẫn để được lâu. Bánh chưng được cắt thành miếng khi ăn, nhân đỗ và thịt nạc luôn phải cân đối ở tất cả các phần.

Bánh tét khi thành phẩm có nếp phải chín mềm và đều, có màu xanh đẹp mắt của rau ngót. Phần đậu xanh và thịt heo cũng phải chín mềm, gia vị vừa ăn. Lớp lá chuối phải gói khéo léo, đẹp mắt và đảm bảo che phủ hết bề mặt bánh. Phần dây cột phải dễ dàng tháo rời khi chúng ta muốn ăn bánh.

4. Ý nghĩa của bánh chưng và bánh tét

Bánh chưng xuất hiện trên mâm cỗ ngày Tết của người Việt đã từ rất lâu. Bánh chưng thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho con người. 

Bánh chưng, bánh tét mang những ý nghĩa vô cùng sâu sắc về tình người, cuộc sống.

Bên cạnh đó làm bánh chưng tết cũng thể hiện được chữ hiếu của người con với cha mẹ,chính vì thế mà phong tục dùng bánh chưng làm quà biếu dâng lên cha mẹ cũng từ đây mà có. Đi cùng với bánh chưng bánh dày,trong ngày tết bày mâm ngũ quả thể hiện ngũ hành tương sinh tương khắc.

Nằm trong tương quan so sánh với bánh chưng ngày Tết, bánh Tét của người Nam Bộ cũng mang những ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Bánh được bọc bên ngoài với nhiều lớp lá chuối được ví như người mẹ đang bao bọc lấy người con. Ăn bánh tét lại nghĩ về mẹ, sống với mẹ. Bánh tét cũng mang hình ảnh như chị em đùm bọc lẫn nhau cùng một mẹ sinh ra. Bên cạnh đó, bánh tét xanh nhân nhuỵ vàng gọi nhớ đến màu xanh của đồng quê, đời sống chăn nuôi, của an vui xóm – làng, thể hiện ước mơ “an cư lạc nghiệp” của con người về một mùa xuân ấm no, hạnh phúc.

5. Tạm kết

Dù có sự khác biệt trong cách gói, cũng như một số nguyên liệu như thịt, lá dong, lá chuối…, bánh chưng bánh tét vẫn là linh hồn ẩm thực của mỗi gia đình Việt mỗi dịp Tết đến xuân về. Hy vọng qua bài viết của Khacnhaugiua.vn, các bạn độc giả sẽ có thêm những thông tin thú vị về ẩm thực ngày Tết đặc trưng của mỗi vùng miền, để nếu bạn có đi du lịch hay ghé thăm người thân ở xa vào những dịp lễ, tết cũng không thấy xa lạ, bất ngờ.

Video liên quan

Chủ Đề