Đẻ đất đẻ nước của dân tộc nào năm 2024

Đoạn trích thuộc chương Mở đầu của tác phẩm. Tác giả dân gian đã tưởng tượng về sự bắt đầu của trời đất cũng giống như các dân tộc khác, đó là cho thế giới lúc đầu là một khối hỗn mang chưa có sự sống. Cách hiểu này cũng rất gần với những phát hiện của khoa học ngày nay, nhưng tác giả dân gian lại kể về sự bắt đầu ấy một cách đầy huyền bí và thiêng liêng, thể hiện kết quả của lối tư duy ngây thơ nhưng lôgic của người xưa. Đoạn trích kể lại thời hỗn mang “chưa có ngôi sao đỏ đỏ,… chưa có ngọn cỏ xanh xanh,… chưa có nước sông Quanh, mó Vận,… chưa có sông Sàng, mó Lí”. Trên trời, dưới đất đều trống không, xơ xác. Cỏ cây, hoa lá, các hiện tượng thiên nhiên, các loài muông thú đều muốn dậy, muốn sinh nhưng chưa được… Con người cũng chưa có. Thứ gì cũng “chưa có”, “chưa nên”.

Publisher

NXB Khoa học xã hội

Description

Đẻ đất đẻ nước là thiên sử thi thần thoại của người Mường – một dân tộc thiểu số hiện cư trú chủ yếu ở tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá. Tác phẩm thể hiện trí tưởng tượng vô cùng phong phú và sinh động của người Mường xưa. Đẻ đất đẻ nước kể lại những sự việc ở trần gian từ khi khai thiên lập địa, khi vũ trụ còn là một khối hỗn mang, đến khi bản mường được ổn định. Người Mường đã giải thích thế giới theo tư duy thần thoại, tư duy hồn nhiên của con người ở thời bình minh của lịch sử loài người. Đẻ đất đẻ nước là sự hệ thống hoá các thần thoại và truyền thuyết của dân tộc Mường, vì thế tầm vóc của nó rất đồ sộ. Tác phẩm là niềm tự hào của người Mường, và pho sử thi thần thoại này vẫn được các thầy cúng đọc trong các nghi lễ cúng người chết.

Sử thi, hay mo “Đẻ đất đẻ nước” là niềm tự hào của người Mường, là viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân gian các dân tộc Việt Nam. Khác với các tác phẩm văn học dân gian khác, "Đẻ đất đẻ nước" tồn tại song hành trong đời sống vật chất và tinh thần của người Mường từ bao đời nay. Cùng nhà thơ Bùi Tuyết Mai - người con của "vũ trụ Mường" tìm hiểu về tác phẩm này các em nhé. (Trang văn học nhà trường - Chương trình Văn nghệ thiếu nhi 03/4/2017)

(HBĐT) - Trong Mo Sử thi Mường là tập hợp các các roóng (chương) Mo: Đẻ đất đẻ nước, Đẻ trứng Điếng, Xin lửa, Làm nhà, Hỏi vợ, Trồng dâu nuôi tằm, Đẻ Sanh, Đại hạn đại lụt (nạn hồng thủy), Tranh Chu đốt nhà vua Dịt Dàng, Săn muông thú, Đẻ trống đồng... Có thể nói, roóng mo Đẻ đất đẻ nước là chương mở đầu cho các chương mo Mường là sử thi. Trong tập hợp một số bài báo giới thiệu về mo Sử thi Mường, chúng tôi xin bắt đầu từ roóng Mo Đẻ đất đẻ nước.

Hiện nay, trong tỉnh lưu truyền 3 bản mo Mường được xuất bản, gồm bản của cố nhà nghiên cứu Bùi Thiện, của Sở VH-TT&DL và của nhà nghiên cứu văn hóa Mường Bùi Nợi. Trong 3 ấn phẩm trên, có thể thấy khá rõ bản của Bùi Nợi và Sở VH-TT&DL chủ yếu được sưu tầm ở địa bàn huyện Tân Lạc, Cao Phong… song cái lõi chủ yếu vẫn là sưu tầm ở vùng Mường Bi (Tân Lạc), xin gọi là Mo Mường Bi. Bản của Bùi Thiện được sưu tầm ở vùng Lạc Sơn, Yên Thủy, Lạc Thủy… xin tạm gọi là bản mo Mường Bùi Thiện do sưu tầm hay Mo Bùi Thiện.

Riêng roóng mo Đẻ đất đẻ nước của Mường Bi và mo Mường của Bùi Thiện có sự khác nhau khá cơ bản về một số chi tiết ở đoạn mở đầu.

Trong xã hội cũ, việc thực hiện tang lễ thường kéo dài 5 - 7 ngày đêm, thậm chí trong các nhà lang đạo quý tộc, tang lễ kéo dài 12 - 15 ngày đêm. Mo Đẻ đất đẻ nước thường được diễn xướng vào đêm thứ nhất hay đêm thứ 2 - 3 trong chuỗi ngày thực hiện tang lễ.

Vắn tắt về nội dung roóng mo Mo Đẻ đất đẻ nước cơ bản như sau: Trời đất thuở xưa còn bạc lạc, bời lời, một vụ nổ lớn sinh ra đất - nước – vũ trụ… Một cây si nhỏ mọc lên, không may nó bị chết yểu. Sau đó, mọc lên cây si khác khổng lồ, từ cây si vươn cành sinh ra các mường lớn, mường nhỏ… Sau đó, cây si bị sâu hà mục ruỗng, gẫy đổ. Từ thân cây si sinh ra lớp nhân vật thứ nhất trong mo Mường là: Dạ Dần, Dạ Dợ... đẻ các nhân vật quái gở như: Khồng Cả, Khồng Vàng, Chim Ây - Cái Ưá...

Chim Ây - Cái Ưá mổ vách đá làm hang để ở, sinh ra rất nhiều trứng, từ các trứng này sinh ra muôn loài và sinh ra loài người. Có vài quả trứng đặc biệt, sinh ra 3 anh em Đá Cài, Đá Cần (có nơi gọi là Tá Cài, Tá Cần) và Nàng Út Dạ Kịt.

Bối cảnh xã hội khi đó rối ren, loạn lạc, con người nhận thấy rằng họ cần phải có một người làm thủ lĩnh để dẫn dắt dân Mường, thế là dân Mường vào hàng mời, rước Đá Cần ra làm lang cai quản đất Mường, không may bị ma Cốch (Sao chổi) đánh chết. Dân Mường lại phải lần nữa vào hang mời Đá Cần ra làm lang… Riêng bản mo Mường Bi có những chi tiết khác biệt so với bản của Bùi Thiện, song sau khi bóc tách sự "can thiệp” mang tính tạo hóa của Bà Nhần, cốt lõi của nội dung cũng tương đồng như Mo Bùi Thiện. Về đặc điểm đều là các lời Mo được sưu tầm trong dân gian, nên sự lặp đi, lặp lại, chi tiết đôi lúc lộn xộn, không logic, gây khó khăn cho các nhà sưu tầm khi biên tập, biên dịch lại. Chúng tôi cố gắng hệ thống lại và truyền tải tới bạn đọc những nội dung, giá trị cốt lõi của Đẻ đất đẻ nước.

Đẻ đất đẻ nước bản Mo Mường Bùi Thiện sưu tầm:

Đẻ đất là roóng mo đầu tiên mở đầu cho chuỗi mo Đẻ đất đẻ nước. Đây là câu chuyện kể lại sự sinh nở của Trái Đất khi còn hỗn mang:

Cuông đất khi xưa còn bạc lạc

Cuông nước xưa kia còn bời lời

Trời với đất còn liền làm một

Chưa có sào sông Ly([1]) chảy lọt lá cỏ tranh

Chưa có sào sông Cái([2]) chảy lọt lá le

Nước sông Đằm, sông Đè([3]) khi xưa chưa có.

Đất trời còn đang trong cảnh "bạc lạc" "bời lời" hỗn mang đất trời chưa hình thành nên muôn loài chưa có:

Bỗng tự dưng

Nghe tiếng xoẹt như tiếng xé gió

Nghe tiếng vèo như con diều hâu bay

Nghe bên chiêu gió thổi ra rầm rầm

Nghe bên đăm gió cuốn ra cuồn cuộn

Cuốn đất đã nên đất

Cuốn nước đã nên nước

Trời ra trước là khật

Đất ra sau lồ lộ

Nở đất ra bằng mẹng cái ang

Nảy đất vàng bằng miệng cái bát, cái đĩa...

Thật là một cuộc sinh nở vĩ đại. Từ một vụ nổ sinh ra đất và nước. Lời miêu tả của dân gian đơn giản nhưng vẫn lột tả được một vụ nổ sinh ra trời - đất - nước…

Đẻ đất đẻ nước bản Mo Mường Bi:

Trời ra trước bạc lạc

Đất ra sau bời lời

Trời ra trước ở trên

Đất ra sau ở dưới

Trên trời đặt ra làm chín

Dưới đất đặt ra làm mười

Trời ở trên úp không lặp

Nắp ở trên úp không vừa.

Từ đây, tác giả dân gian cho sinh ra một nhân vật nữ là Bà Nhần làn người "xếp sắp” lại bầu trời, mặt đất, một dạng kiểu nhân vật Nữ Oa trong thần thoại trong văn hóa Trung Hoa, hay kiểu ông Đùng trong thần thoại cổ của người Mường…

Bà Nhần mới xuống đất bằng

Đặt ra bốn phương

Phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc

Rồi bà Nhần thu đất lại

Nắm đất rắn nên đá

Dồn đất lại nên đồi

Phương Bắc để cao

Dồn lại thành đồi dốc, núi cao

Phương Nam để thấp

Nén đất trũng xuống thành bể, thành sông

Để cho con cá, con khú, con rồng thong dong dưới nước.

Có hay không sự khác biệt trong chi tiết mở đầu

Có thể thấy, trong chi tiết mở đầu bản mo Bùi Thiện hoàn toàn mang tính tự nhiên trời - đất - nước được sinh ra từ hỗn mang qua vụ nổ lớn. Song bản mo Mường Bi không nói đến vụ nổ lớn, chỉ nói đất trời sinh ra bời lời, bạc lạc, sau đó xuất hiện nhân vật Bà Nhần "nắn đất lại nên đá”, "dồn đất thu nên đồi”, "nén đất trũng xuống thành bể, thành sông”… Như vậy có thể thấy, mo Bùi Thiện trời đất, núi non… sinh ra từ tự nhiên; còn mo Mường Bi cho rằng núi đồi, sinh ra nhờ thần thánh.

Ban đầu nghe hơi rối, tại sao cùng là Đẻ đất đẻ nước lại có sự khác biệt về chi tiết sinh ra đất trời, núi non, đất đá? Sau khi xem xét kỹ sẽ thấy, bản mo Mường Bi nếu gạt bỏ đi các chi tiết thần thánh can thiệp nắn đất rắn thành đá, thành núi đồi… thì ta sẽ thấy bản mo Mường Bi và mo Bùi Thiện hoàn toàn tương đồng nhau về tổng thể trong chi tiết mở đầu, có sự thống nhất khá cao trong nội dung cốt lõi.

[1]Sông Ly là con sông thần thoại trên trời.

[2] Sông Cái thường được người Mường gọi các khúc sông sâu, rộng, có nhiều nơi gọi đây là con sông Hồng.