Hình ảnh người phụ nữ trong Vợ chồng A Phủ

Tiêu biểu những nhà văn viết về người phụ nữ đạt được thành công như Tô Hoài khi viết về Mị, Kim Lân khi viết về Thị và bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt, Nguyễn Khải với nhân vật Cô Hiền và Nguyễn Minh Châu với người đàn bà hàng chài. Tất cả những nhà văn ấy đã nói thật chính xác và ấn tượng về số phận và cuộc đời của nhân vật của mình. Những người phụ nư ấy có những mảnh đời và số phận khác nhau song khi được khám phá vẫn toát lên một nét đẹp chung cho phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt những số phận cuộc đời ấy đã tác động mạnh đến suy nghĩ của bạn đọc.

Trước hết là hình tượng người phụ nữ Tây Bắc qua nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ. Đó là một cô gái xinh đẹp thùy mị nét na, có tài năng thổi sáo rất hay, hiếu thảo với bố mẹ, có lòng tự trọng và chăm chỉ. Tưởng rằng cuộc đời cô phải được hưởng những tháng ngày hạnh phúc cùng với người yêu của mình nào ngơ hoàn toàn ngược lại. Cô trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pa tra trong Hồng Ngài. Kiếp làm dâu gạt nợ ấy đã mang đến những ngày tháng đau khổ lầm lùi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ban đầu cô còn có tinh thần phản kháng đó là chạy về nhà hai mắt đỏ hoe cầm lá ngón trong tay định tử tự nhưng vì cha cô lại quay về nhà thống lí. ở đây cô sống đã quen và đến khi cha chết cô cũng không có ý định tự tử nữa. Cô làm đi làm lại những công việc thường ngày, cuộc sống đói với cô chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cô bị trà đạp về thể xác cũng như tinh thần bị trói buộc bởi hủ tục thần quyền và cường quyền bạo lực. thế nhưng những đêm tình mùa xuân đến đã đánh thúc trái tim ngủ quên của cô bấy lâu nay. Tiếng sao gọi bạn tình của anh chàng nào đó làm cô nhớ lại những ngày cô còn trẻ và tự dưng cô thấy bòi hồi thiết tha, co uống rượu và thấy tâm hồn phơi phới trở lại. cô còn trẻ và cô muốn đi chơi. Thế nhưng ước muốn ấy lại bị chính tay A Sử vùi dập. Cô quay trở về những ngày tháng lầm lũi, nhưng sức sống trong cô vẫn luôn tiềm tàng như thế và đến đêm đông trên Rẻo Cao cô quyết định cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh chạy trốn. hành động đó không chỉ cứu A Phủ và còn cứu chính cuộc đời cô. 

Cuộc đời Mị là vậy còn cuộc đời của Thị và bà cụ Tứ trong vợ nhặt cũng chẳng vui vẻ là bao. Nếu Mị là kiếp con dâu gạt nợ, nhục nhằn và lầm lũi nhưng chí ít vẫn có cái ăn còn Thị và bà cụ Tứ thì lại xuất hiện trong nạn đói năm 1945. Mỗi người một số phận khác nhau có cái khổ khác nhau. Thị xuất hiện với bộ dạng rách rưới, không xinh đẹp đã thế lại còn ăn nói chỏng lọn chanh chua thế nhưng cô vẫn hiện lên với nét đẹp của bản thân mình. Đó là một vẻ đẹp khi cùng Tràng về nhà nhìn thấy cảnh nhà Tràng không như mình mơ tưởng nhưng cô vẫn chấp nhận ở lại cùng anh, cái đói lam cho cô không giữ ý tứ và chỏng lỏn như thế nhưng khi về nhà Tràng thì cô lại tỏ ra là một người vợ hiền đảm đang với việc nhà việc cửa. Còn bà cụ Tứ một người mẹ già cả nhưng trước hoàn cảnh của nạn đói bà vẫn phải bươm chải kiếm tiền, bà già yếu ho khù khụ. Khi nhìn thấy con trai mang về một người đàn bạ là cụ tứ đã thấy lo lắng và ngạc nhiên. Cụ không hẹp hòi vì thêm một miệng ăn mà cụ thấy thương cho con trai thương cho người đàn bà kia. Cụ hiểu ra sự tình thì cụ ngoảnh đi che đi những giọt nước mắt của mình. Có thể nói giọt nước mắt ấy đã biết bao nhiêu lần rơi vì gia đình vì con cái, đó là những giọt nước mắt lặng thầm và cũng không biết rằng những giọt nước mắt ấy đã rơi bao nhiêu lần rồi. và lần này nó lại rơi, rơi vì trong tình cảnh khốn khó ấy. thế rồi cụ vẫn chấp nhận và hướng các con mình đến một tương thương lại hạnh phúc hơn thực tại. có thể nói ngay khi thực tại phũ phàng ấy con người ta vẫn cưu mang lấy nhau. Vẻ đẹp của bà cụ Tứ là vẻ đẹp của mộ người mẹ hiện từ nhân hậu giàu đức hi sinh và luôn khuyên con niềm tin về cuộc sống. 

Nhà văn Nguyễn Khải cũng xây dựng một nhân vật khá điển hình cho đề tài người phụ nữ. Đó là nhân vật cô Hiền, cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Hoàn cảnh sống của cô là khi miền bắc đang đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thì trường phát triển. bên cạnh những mặt tích cực của cuộc sống thì cũng có những mặt tiêu cực. vẻ đẹp của cô Hiền được tác giả ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội. cô Hiền trong thời buổi khó khăn vẫn vươn lên kiếm lấy một cái nghề để nuôi sống gia đình. Đó là một vẻ đẹp đảm đang của người Việt Nam nói chung và của người Hà Nội nói riêng. Không chỉ thế cô lo toan mọi việc trong gia đình kiếm sống nuôi gia đình còn thể hiện sự giỏi giang, cần cù, chăm chỉ của người phụ nữ. không chỉ vậy cô Hiền còn biết dạy con mình thành một người có trách nhiệm với tổ quốc và một người trưởng thành. Cô khuyên con của cô đi tòng quân vào miền Nam đánh giặc, có người thân ai mà chẳng sợ mất đi họ nhưng vì tổ quốc cần vì miền Nam ruột thịt cô khích lệ con mình nên đi. Như vậy không phải cô đẩy con mình vào chỗ chết mà cô đang dạy con mình yêu nước thương dân, dạy con mình biết vì người khác. Đó chẳng phải là một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam hay sao, một người mẹ hay sao?. Cô còn là một người chuẩn Hà Nội không pha trộn, có những cái mới du nhập vào nhưng cô thì vẫn vậy vẫn giừ y nguyên cái phẩm chất và tính cách của người Hà Nội. đó là vẻ đẹp của truyền thống giống câu:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”          

Đến với nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc Thuyền Ngoài Xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Người phụ nữ ấy có một ngoại hình xấu xí, thô kệch và dỗ mặt. ngày xưa bà ấy cũng sống trong một gia đình khá giả nhưng khổ nỗi với di chứng của trận đậu mùa năm ấy thành ra chẳng ai lấy. chồng bà hiện giờ là người làm trước kia của nhà bà. Cuộc sông đưa đẩy họ sống bằng nghề chài lưới. Chính cuộc sống mới bắt đầu khi chiến tranh kết thúc mà di chứng của nó để lại còn quá nặng nề khiến cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn hơn. Cũng chính bởi những khó khăn ấy người đàn ông trở nên vũ phu và đánh đập vợ mình. Người phụ nữ trong tác phẩm này hiện lên với vẻ đẹp cam chịu sống vì chồng vì con và không muốn ai biết chuyện bà bị đánh. Bà không những không trách chồng mình mà bà còn thương ông bởi vì chính vì bà đẻ quá nhiều cho nên mới khổ, theo bà chính bà là nguyên nhân khiến cho ông trở nên như vậy, với lại trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái vui vẻ với nhau. Thật ra cam chịu không tốt nhưng sự cam chịu ấy thể hiện vẻ đẹp hi sinh vì con của người phụ nữ Việt Nam. Đối với chúng ta hay cả nghệ sĩ Phùng cũng vậy nên có cái nhìn đa dạng hơn về cuộc sống nay chứ không nên chỉ nhìn bề ngoài hay nhìn một phía. Người phụ nữ ấy không hề ngu muội, không hề chịu đựng một cách không biết gì mà chính là vì con vì chồng mình. 

Qua đây ta thấy mỗi một số phận, mỗi một người phụ nữ trong truyện đều khác nhau nhưng họ có một cái chung nhất đó là thể hiện đầy đủ những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt họ để lại cho ta nhiều suy nghĩ về triết lý của cuộc sống này. Đó là người phụ nữ Tây Bắc đã phải sống như thế nào trong thần quyền và cường quyền, là mặc cho đói nhưng Thị và bà cụ Tứ những người phụ nữ ấy vẫn có một tình thương yêu con người, đùm bọc lấy nhau và chia sẻ cho nhau những ngọt bùi tình yêu cuộc sống, họ không thôi nuôi dưỡng một niềm tin vào cuộc sống tương lai. Hay cô Hiền một người Hà Nội có phẩm chất đáng quý, hay người đnà bà hàng chài khiến ta phải suy nghĩ về những mảng của cuộc đời và nhìn chúng theo nhiều góc độ chứ không thể nhìn qua cái vẻ bề ngoài. Tóm lại những nhân vật ấy điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong bất kì thời kì hoàn cảnh nào vẫn sáng lấp lánh như những hạt ngọc quý giá. Đó là vẻ đẹp nhan sắc, yêu đời, người vợ hiền đảm đang, người mẹ nhân hậu, chịu thương chịu khó…

Như vậy có thể nói những nhà văn trên thật sự phải có lòng yêu thương phụ nữ lắm mới hiểu được hết những tâm tư tình cảm của họ đến như vậy. những nhân vật ấy như một minh chứng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, một vẻ đẹp của người phụ nữ Á Đông hoàn toàn khác so với những vẻ đẹp của người phụ nữ nước khác. Phải chăng họ đã góp phần làm cho xã hội Việt Nam nhìn nhận và trân trọng những người mẹ, người vợ, người chị của mình?

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ QUA BA TÁC PHẨM: “VỢ CHỒNG A PHỦ” CỦA TÔ HOÀI, “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN VÀ “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, nhân vật “Vợ nhặt” và bà cụ Tứ trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân và nhà văn Nguyễn Minh Châu, với hình ảnh người đàn bà hàng chài qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.

Hướng dẫn

Đề bài:Cảm nghĩ về hình tượng người phụ nữ gợi cho em nhiều suy nghĩ nhất trong tác phẩm vợ chồng a phủ, vợ nhặt, một người hà nội và chiếc thuyền ngoài xa.

Văn học luôn ca ngợi cái đẹp, đặc biệt là vẻ đẹp của những người phụ nữ. Vẻ đẹp ấy đã là đề tài tiêu biểu xuyên suốt cho văn học của nhiều giai đoạn khác nhau. Hình tượng người phụ nữ trong “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”, “Một người Hà Nội” và “Chiếc thuyền ngoài xa” là hình tượng tiêu biểu nhất của người phụ nữ, ỏ họ có những vẻ đẹp khác nhau nhưng có điểm chung chính là đều là những vẻ đẹp tiểu biểu cho người phụ nữ của dân tộc, những vẻ đẹp đáng ca ngợi và trân trọng.

Tô Hoài đã thực sự thành công trong “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị. Mị trẻ trung, hát hay thổi sáo giỏi, chăm chỉ cuốc nương làm ngô nhưng cô bị bắt gán nợ vào nhà thống lí Pá Tra. Từ đấy cô sống cuộc đời khổ cực, làm việc quần quật quanh năm suốt tháng “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “Mị tưởng mình như à con trâu, mình cũng là con ngựa”. Những ý thức phản kháng cuả Mị cũng ngày một ngày bị tê liệt dần với hoàn cảnh sống mà không có ý thức về thời gian, sống không có gì để chờ mong. Tưởng như cuộc đời Mỵ sẽ chôn vùi như thế mãi mãi, nhưng không sự xuất hiện của A Phủ đã như một ngọn lửa thổi bùng lên trong Mị những ý thức sống mãnh liệt. Hành động Mị giải thoát cho A Phú chứng tỏ rõ điều ấy. Trong Mị luôn có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, cuộc sống gian khổ và những trận đòn roi nhà thống lý Pá Tra tưởng rằng sẽ dập tắt đi được nhưng không hề, ngược lại nó còn tồn tại bền bỉ và mãnh liệt hơn với thời gian.

Trận đói năm 1945 chắc chắn rằng là lúc những con người khốn khổ và khó khăn nhất. “ Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Đó là những gì mà tác giả Kim Lân đã viết trong Vợ nhặt. Và đúng như tên tác phẩm, nội dung của tác phẩm kể về chuyện anh Tràng một hôm trong cơn đó đã “nhặt” được vợ về chỉ với bốn bát bánh đúc. Người vợ ấy là Thị, người mà trước khi làm vợ chàng thì có vẻ cong cớn lắm nhưng khi về làm dâu nhà bà lão mẹ Tràng lại là một người dâu hiền, cư xử khép nép, tế nhị. “Nàng dâu mới” là sự bất ngờ với bà lão, với người dân trong xóm và chính cả Tràng nữa. Thị xuất hiện và theo về làm vợ chàng như thổi vào xóm nghèo một luồng sinh khí khác, “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.” và Tràng cũng “có vẻ gì phớn phở khác thường… tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.” Thị không một lời ca thán về hoàn cảnh nghèo đói, Thị cảm thông và chia sẻ những khó khăn với bà lão, với Tràng trong những ngày đói khổ nhất.

Còn vẻ đẹp của người phụ nữ trong “Một người Hà Nội” là vẻ đẹp hiện đại hơn, vẻ đẹp ở phẩm chất con người. Bà Hiền- Nhân vật chính được kể trong tác phẩm.Vẻ đẹp để lại nhiều ấn tượng nhất của bà là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng, vẻ đẹp của con người Hà Nội luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình.Điều này được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của bà về hai người con đi bộ đội. Khi anh Dũng xin đi bộ đội vào Nam chiến đấu, bà nói với nhân vật “tôi”: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Đến lượt thằng con thứ hai lên đường bà cũng nói “Tao không khuyến khích cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Bà muốn sự công bằng như bao bà mẹ khác “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”.Bất kì người mẹ nào cũng yêu thương con, cũng muốn con mình được sống tốt nhưng bà Hiền lại khác, cách bà thương con thật đặc biệt, bà thương con qua những lời dạy, những hành động giáo dục con nên người. Lòng tự trọng không cho phép con bà sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây bà còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở bà Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự trọng của dân tộc.

Và hơn tất cả, vẻ đẹp của người phụ nữ trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là đem đến nhiều ấn tượng nhất. Một người đàn bà làng chài, không được gọi tên cụ thể bởi vì những phẩm chất của người đàn bà được nói đến trong “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng là phẩm chất chung của những người đàn bà làng chài, thủy chung, cam chịu, kiên cường vì chồng con. Chị mang thân hình quen thuộc của người miền biển, xấu xí, thô kệch, được anh làng chài lấy về. Cuộc sống lam lũ, vất vả, nghèo đói bao trùm có những ngày gia đình chị phải ăn xương rồng chấm muối. Vật chất đói khổ như thế nhưng về ti
nh thần, tình cảm chị còn khổ sở hơn nhiều lần. Ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn. Những trận đòn, lời chửi rủa của chồng chị thật cay nghiệt “Mày chết đi cho ông nhờ” Sự đau khổ cả về vật chất và tinh thần. Khó nhọc như thế nhưng chị vẫn chịu đựng. không chống trả, không trốn chạy. Ngay cả khi chánh án gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, nhận hết mọi trách nhiệm về mình. Dường như ta thấy chị thật ngu dốt, khổ như thế thì sống làm cái gì? Nhưng nhìn sâu hơn vào, ta mới hiểu. Dù thất học nhưng chị hiểu lẽ đời, thấu hiểu được sự vất vả của chồng. Hơn tất cả, chị biết chiếc thuyền này cần có bàn tay của người đàn ông chèo chống. Đẻ có thể lo cho cuộc sống của cả gia đình là không hề dễ dang. Chính những áp lực đã dồn thành những trận đòn roi. Nhận vì mình đẻ nhiều nên mới cực khổ, nên chị cam chịu, niềm tin của chị là được nhìn các con vui vẻ, ăn no mặc ấm. Đây là tấm lòng đáng quý của người mẹ.

Bốn tác phẩm văn học viết vào những thời điểm lịch sử khác nhau, bởi các ngòi bút khác nhau nhưng đều hướng tới vẻ đẹp của người phụ nữ. Đối với vẻ đẹp ấy không chỉ là thái độ ca ngợi trân trọng mà còn có cả sự cảm thông chia sẻ với những số phận vẻ đẹp. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn như vậy: Có sức sống mạnh mẽ, lòng tự trọng cao cả, yêu thương chồng, thủy chung son sắt, mang trong mình tấm lòng bao la của một người mẹ hết mực yêu thương con.

Theo wikisecret.com