Phương pháp giảng dạy trong tiếng Anh

Lý luận và phương pháp giảng dạy tiếng anh là chuyên ngành đào tạo sau đại học ở bậc học Thạc sĩ. Chương trình này nhằm đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành Lý Luận và Phương pháp dạy học bộ môn tiếng Anh có kiến thức chuyên môn vững vàng; có năng lực thực hành giao tiếp bằng tiếng Anh. Có thể nắm vững, phát triển và biết cách ứng dụng một cách thích hợp; các kỹ thuật giảng dạy tiếng Anh hiện đại của thế giới vào thực tế giảng dạy; và nghiên cứu ở các trường đại học, cao đẳng, phổ thông chuyên ngữ Việt Nam; có khả năng tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh.

– Hoàn chỉnh, mở rộng, nâng cao kiến thức đã học trong chương trình đại học về việc giảng dạy tiếng Anh.

– Trang bị kiến thức cơ bản về lý luận về các phương pháp giảng dạy khác nhau:

  • Tâm lý học hoạt động và tâm lý học nhận thức,
  • Ngôn ngữ học,
  • Tâm lý – ngôn ngữ học,
  • Xã hội – ngôn ngữ học,

– Học về lịch sử phát triển của tiếng Anh để trên cơ sở đó học viên có thể vận dụng vào nghiên cứu các cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tiếng Anh hiện đại;

2. Bổ trợ cho học viên những kiến thức có lựa chọn về các chuyên ngành có liên quan đến lĩnh vực dạy – học như:

  • Lý thuyết biên soạn và phát triển chương trình, giáo trình;
  • Lý luận về kiểm tra-đánh giá năng lực và kiến thức ngôn ngữ; vai trò của công nghệ thông tin, kỹ thuật hiện đại trong việc hỗ trợ hoạt động dạy học…;

– Bồi dưỡng cho học viên thế giới quan và phương pháp luận khoa học,

– Rèn luyện cho học viên các phương pháp nghiên cứu khoa học chung và chuyên biệt về giáo dục và giáo dục về ngôn ngữ nhằm:

  • Để học viên vận dụng vào việc hoàn thành luận văn tốt nghiệp;
  • Bước đầu độc lập tổ chức điều tra, nghiên cứu, đề ra những giải pháp phù hợp cho những vấn đề do thực tế dạy học và công tác giáo dục đặt ra cho họ;

– Học viên tốt nghiệp cao học chuyên ngành lý luận và phương pháp giảng dạy tiếng Anh có thể thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn nhiệm vụ giảng dạy tiếng Anh và nghiên cứu, quản lý ở các cơ sở đào tạo, các trường Đại học, Cao đẳng, phổ thông trung học hoặc các cơ quan nghiên cứu, đào tạo hoặc các cơ sở sử dụng nguồn nhân lực có kỹ năng ngoại ngữ. Học viên có khả năng tiếp tục học tập và nghiên cứu khoa học để đạt học vị Tiến sĩ.

II. VỊ TRÍ LÀM VIỆC SAU KHI TỐT NGHIỆP LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BỘ MÔN TIẾNG ANH:

Sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ Lý luận và phương pháp giảng dạy tiếng anh người học có thể đảm nhận các vị trí việc làm sau đây:

  • Có thể đảm nhận công việc ở các vị trí giảng dạy, nghiên cứu, tư vấn; hoạch định kế hoạch, chương trình đào tạo giảng dạy tiếng Anh tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trung học, và các cơ sở giảng dạy ngoại ngữ;
  • Có thể làm việc quản lý ở các trường, sở giáo dục hoặc phòng giáo dục tại các địa phương và tham gia các dự án giáo dục;
  • Có thể thành lập và vận hành trung tâm ngoại ngữ, tổ chức giảng dạy tại gia, hoặc tự tìm kiếm cơ hội việc làm ở nước ngoài;
  • Có thể tiếp tục tham gia chương trình đào tạo trình độ tiến sỹ.

III. CHUẨN ĐẦU RA LL&PPGDBMTA:

Khi hoàn thành khóa học, người học dự kiến có năng lực:

+ Đánh giá và vận dụng các lý thuyết, nguyên lý cơ bản, các nguồn lực phục vụ cho việc học và dạy tiếng Anh một cách phù hợp, sáng tạo vào bối cảnh giảng dạy cụ thể;

+ Nghiên cứu và đề xuất giải pháp mang tính chuyên gia cho các vấn đề thuộc lĩnh vực học và dạy tiếng Anh;

+ Phát triển chuyên môn, ý thức đạo đức nghề nghiệp và học tập suốt đời, thể hiện cụ thể như sau:

  • – Có kiến thức chuyên sâu về lý thuyết học và dạy tiếng Anh, và nguyên lý cơ bản của các phương pháp giảng dạy tiếng Anh;
  • – Có kiến thức chuyên sâu về nguyên lý vận dụng các nguồn lực phục vụ cho việc tổ chức học và dạy tiếng Anh một cách phù hợp, sáng tạo;
  • – Nắm vững kiến thức nền tảng về phương pháp nghiên cứu giáo dục để giải quyết các vấn đề trong học tập và giảng dạy tiếng Anh;
  • – Phân tích, đánh giá, và tổng hợp các lý thuyết, nguyên lý cơ bản liên quan đến việc học và dạy tiếng Anh để ứng dụng vào bối cảnh giảng dạy cụ thể;
  • – Nghiên cứu và đề xuất hướng giải quyết mang tính chuyên gia cho các vấn đề thuộc lĩnh vực học và dạy tiếng Anh;
  • – Có năng lực ngoại ngữ khác ngoài tiếng Anh trình độ 4/6;
  • – Có năng lực tự chủ và sáng tạo, phát triển nghề nghiệp chuyên môn và học tập suốt đời.

Trên đây là những chia sẽ của Viện về chuyên ngành đào tạo Thạc sĩ Lý luận và phương pháp giảng dạy tiếng anh. Trong năm 2022, thí sinh có nguyện vọng theo học chuyên ngành có thể đăng ký tại Viện.

Xem thêm: NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO HỌC THẠC SĨ TIẾNG ANH

III. Địa chỉ nhận hồ sơ đào tạo Thạc sĩ sư phạm Tiếng Anh tại TPHCM, 2022:

Viện Nghiên Cứu Quản Lý Hành Chính – VĂN PHÒNG TUYỂN SINH SỐ 03

– Địa chỉ liên hệ nhận hồ sơ trực tiếp:

+ CS: 181 Lê Đức Thọ, Phường 17, quận Gò Vấp, TPHCM.

– Website: Riam.edu.vn – Viện Nghiên Cứu Quản Lý Hành Chính

– Hotline: 0907.139.139 (thầy Dũng)

Đăng ký hỗ trợ tại đây : (Phòng tuyển sinh sẽ liên hệ – hướng dẫn làm hồ sơ xét tuyển)

Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và cách dùng của một mục dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể là các mẫu lời nói, từ vựng hay ngữ pháp, hoặc một nội dung chủ điểm nào đó, thường được giới thiệu thông qua một bài hội thoại hay một bài khoá, hoặc những tình huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan.

Với phương pháp dạy học mới, công việc giới thiệu ngữ liệu không còn thuần tuý chỉ là việc thày giải thích nghĩa của từ mới (mà phần lớn giáo viên thường thực hiện bằng cách cho nghĩa tiếng Việt) và giải thích các quy tắc ngữ pháp và các mẫu câu. ở phần này, người giáo viên còn cần phải đồng thời làm rõ cách sử dụng của các mẫu câu hoặc từ mới đó trong ngữ cảnh. Chỉ khi được giới thiệu trong ngữ cảnh, nghĩa và cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới được làm sáng tỏ. Như vậy, nội dung cần giới thiệu ở bước giới thiệu ngữ liệu là:

§    Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar)

§    Ngữ nghĩa (Meaning)

§    Cách sử dụng (Use)

Một đặc điểm nổi bật của phương pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là phương pháp mới rất chú trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học không chỉ qua nghe thụ động mà còn được vận động trí óc, chủ động tham gia vào quá trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngôn ngữ khác nhau.

   Có nhiều cách/ thủ thuật giới thiệu ngữ liệu. Sau đây là một số thủ thuật giới thiệu ngữ liệu mà các giáo viên có thể tham khảo để ứng dụng cho bài dạy cụ thể của mình.

Các thủ thuật tạo dựng tình huống. (setting up situations/ contexts)

a). Dùng môi trường, đồ vật thật trong lớp, trong trường;

b). Sử dụng những tình huống thật trong lớp;

c). Dùng các tình huống thật trong đời sống thật của hoc sinh;

d). Dùng các câu chuyện có thật, các hiện tượng thật trong thực tế;

e). Sử dụng các bảng biểu, bản đồ, bảng tin, báo chí;

f). Sử dụng tranh, ảnh, giáo cụ trực quan;

g). Sử dụng ngôn ngữ học sinh đã biết;

h). Sử dụng các bài hội thoại ngắn;

i). Sử dụng tiếng mẹ đẻ;

k). Phối hợp một hay nhiều cách trên.

Giới thiệu hình thái ngôn ngữ

Sau khi dùng ngữ cảnh để giới thiệu nghĩa và cách dùng của các mục dạy, lúc này giáo viên có thể làm rõ hình thái cấu trúc, các quy tắc ngữ pháp nếu có để học sinh nhớ được dễ hơn và hệ thống hoá được những ngữ liệu đã học. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh tự nhận xét và lập thành mẫu câu hoặc lập ra các công thức dễ nhớ.

Kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh. (Checking comprehension)

Sau khi giáo viên đã giới thiệu làm rõ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu mới,  cần thực hiện việc kiểm tra mức độ tiếp thu bài  của học sinh để qua đó biết được học sinh đã thực sự hiểu bài chưa, mức độ hiểu đến đâu, để trên cơ sở đó có thể kịp thời bổ xung bài giảng nếu cần.

Việc kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh ở phần giới thiệu ngữ liệu này có thể được thực hiện thông qua một số bài tập thực hành như:

§ Học sinh ứng dụng mẫu câu vừa học vào các tình huống tương tự khác giáo viên đưa ra;

§ thực hiện một số bài tập lắp ghép;

§ xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ, đoạn câu gợi ý;

§ thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi trắc nghiệm đúng sai (comprehensive questions, True/False questions)

§ dịch ra tiếng Việt (nếu phù hợp và cần thiết)

 Tóm tắt các bước giới thiệu ngữ liệu mới

Các bước giới thiệu ngữ liệu mới có thể được tóm tắt theo một tiến trình như  sau:

1)                        Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ mới/ mẫu câu chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh ảnh...

2)                        Nêu bật cấu trúc/ từ/ mẫu câu chức năng mới bằng cách đọc to cho học sinh nghe nhắc lại hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hướng sự chú ý của học sinh vào những mục dạy đó.

3)                        Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu cần.

4)                        Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đưa thêm các tình huống hoặc các ví dụ khác.

5)                        Lặp lại tương tự bước 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý.

6)                        Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu như gợí ý ở mục 2.3.

Khi giáo viên nhận thấy học sinh đã làm tốt được bước 6. thì có thể chuyển sang phần luyện tập sáng tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn.

Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng không phải lúc nào việc giới thiệu ngữ liệu cũng phải tuân theo tuần tự tiến trình trên. Ví dụ, ngay sau bước 2. nếu giáo viên cảm thấy học sinh đã hiểu và có thể làm tốt các bài tập tái tạo thì có thể chuyển ngay sang bước 6. Hoặc công việc của bước 3. cũng có thể để lui lại để thực hiện vào cuối bài ở bước củng cố bài, sau khi học sinh đã làm các bài tập thực hành.

 Một số lưu ý khi giới thiệu/dạy từ vựng

Tiến trình giới thiệu ngữ liệu được trình bày ở trên có thể được coi là tiến trình chung cho việc giới thiệu ngữ liệu mới. Tuy nhiên, cách giới thiệu từ vựng cũng có những đặc thù riêng. Phần này sẽ trình bày một số điểm cần lưu ý khi giới thiệu từ mới.

Chọn từ để dạy

Thông thường trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng cần đưa vào dạy như nhau. Để lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét các câu hỏi sau:

a) Từ chủ động hay từ bị động?

§ Từ chủ động (active/ productive vocabulary) là những từ học sinh hiểu, nhận biết và sử dụng được trong giao tiếp nói và viết.

§ Từ bị động (passive/ receptive vocabulary) là những từ học sinh chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe và đọc.

Cách dạy hai loại từ này có khác nhau. Từ chủ động liên quan đến cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, cần đầu tư thời gian để giới thiệu và luyện tập nhiều hơn, đặc biệt là cách sử dụng. Với từ bị động, giáo viên có thể chỉ dừng lại ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần xác định xem sẽ dạy từ nào như một từ bị động và từ nào như một từ chủ động. Với từ bị động, giáo viên có thể khuyến khích học sinh tự tìm hiểu nghĩa từ (ví dụ: tra từ điển), hoặc đoán từ qua ngữ cảnh.

b) Học sinh đã biết từ này chưa?

Giáo viên cần xác định rõ từ mình định dạy có thực sự là từ cần dạy hay không. Vốn từ của học sinh luôn luôn được mở rộng bằng nhiều con đường, và cũng có thể bị quên bằng nhiều lý do khác nhau.  Để tránh tình trạng giới thiệu những từ không cần thiết và mất thời gian, giáo viên có thể dùng những thủ thuật nhằm phát hiện xem các em đã biết những từ đó chưa và biết đến đâu. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật như eliciting; brainstorming; các thủ thuật dùng ở các bước 5) và 6) trong tiến trình giới thiệu ngữ liệu mới; hoặc có thể hỏi trực tiếp học sinh những từ nào là từ mới và khó trong bài.

Những thủ thuật làm rõ nghĩa từ

Ngoài những thủ thuật giới thiệu nghĩa trong ngữ cảnh đã đề cập ở phần giới thiệu ngữ liệu chung, có thể sử dụng một số thủ thuật đặc thù cho từ vựng như:

a)        Dùng trực quan như: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ (hình que), hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ v.v.

b)        Dùng ngôn ngữ đã học:

§         Định nghĩa, miêu tả;

§         Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa;

§         Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ;

§         Tạo tình huống;

§         Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh

c)        Dịch sang tiếng mẹ đẻ.

Các bước tiến hành giới thiệu từ mới cũng tương tự như các bước giới thiệu ngữ liệu nói chung, song có thể được phối hợp nhanh hơn.Cụ thể là sau khi đã làm rõ nghĩa và cách sử dụng từ, giáo viên sẽ tạo điều kiện cho học sinh thực hành ngay qua các bài tập ứng dụng phối hợp với các mẫu cấu trúc hoặc mẫu câu chức năng. Qua các bài tập thực hành này giáo viên đã cùng lúc kiểm tra được mức độ tiếp thu bài của học sinh.

Tăng cường sự tham gia của học sinh ở bước giới thiệu ngữ liệu mới

Như đã đề cập, điểm nổi bật ở phương pháp mới là tạo cho học sinh được tham gia vào quá trình giới thiệu ngữ liệu mới.

Trong giai đoạn giới thiệu ngữ liệu mới, thông thường giáo viên đóng vai trò chính, vai trò truyền thụ, học sinh đóng vai tiếp nhận, thụ động là chủ yếu. Tuy nhiên, nếu giáo viên tạo được điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình này, kết quả tiếp thu bài của các em sẽ tốt hơn nhiều.

Để làm được điều đó, giáo viên cần tìm kiếm và sử dụng những thủ thuật phát huy sự chủ động suy đoán, tự phát hiện của học sinh. Ví dụ, phát hiện và nhận biết cấu trúc hay từ mới và tự rút ra mẫu cấu trúc của các mục ngữ pháp, hoặc đoán nghĩa từ trong ngữ cảnh, tự giải thích nghĩa từ bằng vốn từ có sẵn, cho từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa,v.v.

Sử dụng phối hợp các kỹ năng trong khi giới thiệu ngữ liệu mới

Trong quá trình giới thiệu ngữ liệu, giáo viên nên phối hợp nhiều các kỹ năng với nhau để giới thiệu mục dạy, ví dụ giới thiệu qua nói, sau đó học sinh nghe và nhắc lại; học sinh nhìn mẫu được viết trên bảng, hoc sinh tái tạo qua nói, nghe, viết , đọc; học sinh xây dựng các bài hội thoại theo mẫu qua nói nghe trong nhóm sau đó viết lại hoặc ngược lại, chuẩn bị qua viết, sau đó nói lại; học sinh viết các câu trả lời trên giấy trong/ bảng con, sau đó đưa ra trước lớp để được nhận xét, v.v.