Phương pháp nghiên cứu tâm lý học giúp thu thập thông tin nhanh nhất và rẻ nhất :

2. Phương pháp nghiên cứu tâm lý

Khoa học tâm lý sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý như quan sát, điều tra bằng phiếu hỏi, thực nghiệm, nghiên cứu các sản phẩm hoạt động, trắc nghiệm...

2.1. Phương pháp quan sát

Quan sát là một loại tri giác có chủ định dùng các phân tích quan mà chủ yếu là phân tích qua thị giác để thu thập các thông tin cần thiết nhằm xác định hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.

Ví dụ: Nghiên cứu hứng thú học tập của học sinh thông qua quan sát các biểu hiện bên ngoài: sự đúng giờ khi đi học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tính tích cực khi tham gia xây dựng bài, tiếp thu tri thức mới.... tiếp, quan sát gián tiếp, quan sát có tham dự và quan sát không tham dự...

Phương pháp quan sát cho phép nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trung thực, khách quan và nghiên cứu tâm lý trong trạng thái tồn tại tự nhiên của nó, đơn giản về thiết bị và ít tốn kém về kinh phí. Hạn chế của quan sát là ở chỗ: mang tính bị động cao, tốn nhiều thời gian, tốn nhiều công sức.

Một số yêu cầu để quan sát có hiệu quả:

- Xác định rõ mục đích quan sát, đối tượng quan sát và đối tượng nghiên cứu.

- Lập kế hoạch quan sát một cách cụ thể và chuẩn bị chu đáo mọi điều kiện cho việc quan sát.

- Lựa chọn hình thức quan sát cho phù hợp với hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu và hoàn cảnh nghiên cứu.

- Xác định hình thức ghi biên bản quan sát hợp lí và ghi chép tài liệu quan sát một cách khách quan, trung thực...

Điều tra bằng phiếu hỏi là phương pháp nghiên cứu sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến với một hệ thống câu hỏi đã được soạn sẵn nhằm thu thập những thông tin cần thiết về hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.

Nội dung chính của phiếu hỏi là các câu hỏi. Câu hỏi trong phiếu bao gồm có thể là câu hỏi đóng, loại câu hỏi có nhiều đáp án để lựa chọn và có thể là câu hỏi mở, không có đáp án lựa chọn mà cá nhân tự trả lời.

Điều tra bằng phiếu hỏi có ưu điểm là trong một thời gian ngắn cho phép thu thập thông tin nhanh của nhiều cá nhân trên một địa bàn rộng, mang tính chủ động cao. Hạn chế của phương pháp này là nhiều khi kết quả trả lời không đảm bảo tính khách quan, vì đánh giá hiện tượng tâm lý theo câu trả lời chủ quan của cá nhân người dễ xảy ra hiện tượng "Nghĩ một đằng, nói một nẻo"...

2.3. Phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu chủ động gây ra các hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu sau khi đã tạo ra các điều kiện cần thiết và loại trừ các yếu tố ngẫu nhiên.

Thực nghiệm gồm có nhiều loại bao gồm thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên.

Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: là loại thực nghiệm được tiến hành trong phòng thí nghiệm ở điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài tác động đến hiện tượng tâm lý được nghiên cứu. Loại thực nghiệm này thường được sử dụng nhiều để nghiên cứu các quá trình tâm lý, ít dùng nghiên cứu các thuộc tính tâm lý người và đặc biệt mang tính chủ động cao hơn thực nghiệm tự nhiên.

Thực nghiệm tự nhiên: là loại thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện bình thường của cuộc sống và hoạt động. Trong thực nghiệm tự nhiên có bao hàm cả quan sát. Nếu trong quan sát nhà nghiên cứu chỉ thay đổi các yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh thì trong thực nghiệm tự nhiên nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra hành vi biểu hiện và diễn biến của hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu bằng cách khống chế các nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bật các yếu tố cần thiết trong hoàn cảnh giúp cho việc khai thác, tìm hiểu hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu bằng thực nghiệm.

Thực nghiệm nghiên cứu tâm lý có thể bao gồm: thực nghiệm điều tra và thực nghiệm hình thành.

Thực nghiệm điều tra: nhằm dựng nên một bức tranh về thực trạng hiện tượng tâm lý được nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể

Thực nghiệm hình thành: còn gọi là thực nghiệm giáo dục với mục đích khẳng định ảnh hưởng của tác động giáo dục đến sự hình thành, phát triển hiện tượng tâm lý nào đó ở con người.

Thực nghiệm hình thành thông thường gồm ba giai đoạn: đo thực trạng hiện tượng tâm lý trước thực nghiệm, thiết kế biện pháp tác động giáo dục mới và áp dụng vào trong thực tiễn. Sau một thời gian tác động đo lại sự biến đổi của hiện tượng tâm lý; Từ đó khẳng định vai trò, ảnh hưởng, mối quan hệ của biện pháp tác động giáo dục đó đến sự hình thành và phát triển hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.

Thực nghiệm nghiên cứu tâm lý dù là loại hình thực nghiệm nào cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm đặc biệt dễ bị căng thẳng tâm lý, thần kinh khi làm thực nghiệm. Vì vậy khi sử dụng thực nghiệm nghiên cứu tâm lý cần chú ý tạo ra trạng thái tự nhiên và có sự phối hợp giữa thực nghiệm với các phương pháp nghiên cứu khác

2.4. Phương pháp trắc nghiệm (Test)

Trắc nghiệm tâm lý là một công cụ đã được tiêu chuẩn hoá dùng để đo lường một cách khách quan một hay một số mặt tâm lý nhân cách thông quạ những mẫu câu trả lời bằng ngôn ngữ, phi ngôn ngữ hoặc bằng các hành vi khác.

Các tiêu chuẩn của một trắc nghiệm tâm lý khác với các phương pháp nghiên cứu tâm lý khác là: Có độ tin cậy cao, nghĩa là kết quả đo bằng trắc nghiệm cùng một nghiệm thể, đối tượng ở nhiều lần đo khác nhau đều cho kết quả giống nhau. Có tính hiệu lực (ứng nghiệm) là trắc nghiệm phải đo được chính hiện tượng tâm lý cần đo, đúng với mục đích của trắc nghiệm. Tính tiêu chuẩn hoá - cách thức tiến hành, xử lí kết quả phải theo một tiêu chuẩn xác định và có quy chuẩn theo một nhóm chuẩn. Trắc nghiệm trọn bộ thường bao gồm bốn phần: văn bản trắc nghiệm, hướng dẫn quá trình tiến hành, hướng dẫn đánh giá, bản chuẩn hoá.

Trắc nghiệm tâm lý có nhiều loại như: trắc nghiệm trí tuệ Binê - Xmông, trắc nghiệm trí tuệ Raven... trắc nghiệm chuẩn đoán nhân cách Ayzen, Rôsát, Murây...

Ưu điểm cơ bản của trắc nghiệm:

- Tính chất ngắn gọn,

- Tính tiêu chuẩn hoá,

- Đơn giản về thiết bị và kĩ thuật,

- Định lượng được kết quả nghiên cứu.

Mặt hạn chế của trắc nghiệm là:

- Trắc nghiệm chỉ quan tâm đến kết quả thống kê cuối cùng, không chú ý đến quá trình dẫn đến kết quả.

- Khó soạn thảo một bộ trắc nghiệm đảm bảo tính tiêu chuẩn hoá.

- Không tính đến các nhân tố đa dạng có thể ảnh hưởng đến kết quả trắc nghiệm....

Trắc nghiệm tâm lý cần được sử dụng kết hợp với các Phương pháp nghiên cứu tâm lý khác để chuẩn đoán tâm lý nhân cách con người và chỉ được coi là công cụ chuẩn đoán tâm lý ở một thời điểm phát triển nhất định của con người.

2.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động

Đó là phương pháp dựa vào sản phẩm (vật chất, tinh thần) của hoạt động do con người tạo ra để nghiên cứu đánh giá tâm lý con người như trí tuệ, tình cảm, tính cách... con người, bởi vì khi tạo ra các sản phẩm chủ thể (con người) đã gửi "mình" (tâm lý, nhân cách) vào sản phẩm. Khi tiến hành phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần chú ý xem xét trong mối liên hệ với thời gian, không gian của hoạt động và điều kiện tiến hành hoạt động.

2.6. Phương pháp đàm thoại (phỏng vấn)

Đàm thoại (phỏng vấn) là cách thức thu nhập thông tin về hiện tượng tâm lý được nghiên cứu dựa vào các nguồn thông tin thu thập được trong quá trình trò chuyện. Nguồn thông tin có thể bao gồm các câu trả lời và các yếu tố hành vi như cử chỉ, ngôn ngữ của người trả lời.

Phỏng vấn có thể bao gồm nhiều hình thức: trực tiếp hoặc gián tiếp, phỏng vấn cá nhân hoặc nhóm.

Muốn phỏng vấn thu được nhiều tài liệu tốt cần phải:

- Xác định rõ mục đích, yêu cầu vấn đề cần tìm hiểu,

- Tìm hiểu trước thông tin về đối tượng trò chuyện,

- Rất linh hoạt trong quá trình trò chuyện để thay đổi cách trò chuyện, dẫn dắt câu hỏi cho phù hợp với văn cảnh, hoàn cảnh nhằm đạt được mục đích của nhà nghiên cứu.

Ngoài các phương pháp nghiên cứu kể trên, trong khoa học tâm lý còn sử đụng nhiều các phương pháp nghiên cứu khác để nghiên cứu tâm lý người như phương pháp đo đạc xã hội học, phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân... Để đảm bảo độ tin cậy khoa học của kết quả nghiên cứu tâm lý cần: - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với hiện tượng tâm lý của con người cần nghiên cứu.

- Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp khi nghiên cứu tâm lý con người.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Giáo trình Tâm lý học đại cương
  • Tác giả: Nguyễn Xuân Thức (Chủ biên) - Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Văn Thạc - Trần Quốc Thành - Hoàng Anh - Lê Thị Bừng - Vũ Kim Thanh - Nguyễn Kim Quý - Nguyễn Thị Huệ - Nguyễn Đức Sơn
  • Nguồn: Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm, 2007

1. Khái niệm về phương pháp quan sát

Một trong những phương pháp tốt nhất và thường được sử dụng trong nghiên cứu tâm lý người là phương pháp quan sát. Phương pháp quan sát khoa học là phương pháp nghiên cứu có mục đích dựa trên việc tri giác các hành vi, cử chỉ, lời nói của con người trong các điều kiện tự nhiên.

Quan sát khoa học khác quan sát đời thường ở chỗ:

- Tuân theo mục đích nghiên cứu.

- Tuân theo cách thức nhất định.

- Được ghi chép theo cách thức nhất định.

- Mang tính hệ thống.

- Thông tin thu được phải được kiểm tra tính ổn định và tính hiệu lực.

Phương pháp quan sát một cách khoa học được xác định bởi các đặc điểm chủ yếu sau:

Phương pháp quan sát hướng vào quá trình, ý nghĩa của các hành động riêng lẻ và mối liên hệ của các hành động.

Quan sát biểu hiện bên ngoài, thông qua đó để đoán biết những đặc điểm tâm lý bên trong. Có thể quan sát nét mặt, cử động tay, chân, di chuyển cơ bản, tốc độ, phương hướng, chuyển động, sự va chạm của cá nhân với các vật thể và người khác, nội dung của lời nói, thể hiện ở nguôn từ, ngữ điệu, âm điệu, cường độ của lời nói, sử dụng định hướng, tần số của cử chỉ... kết hợp lại để xác định hành vi chung của con người.

Quan sát trong tâm lý học cũng tuân thủ những nguyên tắc chung cho bất kỳ quan sát khoa học nào. Đó là, phù hợp với mục đích nghiên cứu, kế hoạch hóa và tiến hành quan sát tương tác giữa các cá nhân theo một sơ đồ nhất định, diễn tả các hiện tượng và sự kiện mà chúng ta tri giác được bằng ngôn ngữ thích hợp sao cho người quan sát khác hiểu được, lựa chọn các phương pháp quan sát và ghi lại tùy theo tính chất hoạt động của con người và khả năng quan sát, kiểm tra tính khách quan và độ tin cậy của việc quan sát bằng những nhà nghiên cứu khác và những cách nghiên cứu khác, cần phân biệt được ý nghĩa chủ quan của người quan sát và ý nghĩa chủ quan của hành động được quan sát.

E.C. Kuzơmin chỉ ra 3 yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sử dụng thành công của phương pháp quan sát là:

- Xác định rõ ràng mục đích

- Xây dựng sơ đồ quan sát phù hợp: thiết kế bối cảnh sao cho nhận diện dễ dàng các phần tử được quan sát (mẫu, thời gian, không gian quan sát).

- Xây dựng phương pháp ghi lại thích hợp.

Việc xây dựng sơ đồ quan sát được tiến hành theo nguyên tắc sau:

- Trước hết, người ta quan sát bối cảnh ghi lại tất cả những điều xảy ra và sắp xếp theo các phạm trù nhánh.

- Dựa vào các giả thuyết hoặc từ một lý thuyết xác định các khía cạnh quan sát quan trọng và để xây dựng sơ đồ quan sát.

2. Phân loại phương pháp quan sát

Dựa vào cách thức tổ chức quan sát người ta chia phương pháp quan sát thành một số loại như sau:

2.1. Quan sát không can thiệp

Quan sát hành vi trong bối cảnh không có tác động của người quan sát thường được gọi là quan sát kín. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chép một cách thụ động những gì xảy ra. Các sự kiện diễn ra một cách tự nhiên và không bị thay đổi hay bị điều khiển bởi người quan sát. Trong bối cảnh tự nhiên, hành vi thường xảy ra không có sự sắp xếp đặc biệt nào cho mục đích ghi chép. Lý do quan trọng để tạo ra bối cảnh tự nhiên là chứng minh những mối quan hệ khác nhau đã được phát hiện trong phòng thí nghiệm. Quan sát không can thiệp được sử dụng khi xác định giá trị thực của các kết quả nghiên cứu. Mục đích chính của phương pháp này là miêu tả hành vi như nó thường xảy ra và điều tra mối quan hệ giữa các thông số, biến số khác nhau thường diễn ra.

Một nghiên cứu của các nhà tâm lý học quan tâm đến việc vui chơi của trẻ em co thể quay băng một đưa trẻ đang chơi một cách tự nhiên trong ba hay bốn môi trường khác nhau như ở trường, ở công viên, ở nhà và chơi với các bạn. Các nhà nghiên cứu có thể xem lại các cuốn băng, mỗi quấn băng phản ánh các khía cạnh khác nhau của hoạt động vui chơi của trẻ. Các băng video con có thể được chiếu chậm để xem lại từng khung cảnh, giúp cho việc phân tích các hành động vui chơi một cách chi tiết. Các biểu biện trên nét mặt cũng được nghiên cứu nhờ sử dụng phương pháp này.

2.2. Quan sát có can thiệp

Đặc trưng của phương pháp này là nhà nghiên cứu muốn can thiệp vào tự nhiên nhằm làm sáng tỏ một điểm nào đó của trắc nghiệm hoặc một lý thuyết.

Phương pháp này được sử dụng nhiều hơn phương pháp quan sát không can thiệp trong nghiên cứu tâm lý. Có nhiều lý do dẫn tới việc sử dụng quan sát có can thiệp:

- Để xúc tiến hoặc tạo ra một sự kiện thường ít xảy ra trong tự nhiên hoặc xảy ra bình thường nhưng trong điều kiện khó quan sát.

- Để điều tra những giới hạn trong sự đáp ứng của con người bằng cách thay đổi có hệ thống những thuộc tính của hiện tượng được quan sát.

- Để thâm nhập vào một tình huống thường khó quan sát về mặt khoa học.

- Để tạo ra điều kiện khiến cho những hiện tượng quan trọng được kiểm soát và những hành vi có thể quan sát được một cách thuận lợi.

- Để thiết lập sự so sánh bằng cách tác động lên một hoặc nhiều thông số độc lập để xác định hiệu quả của chúng đối với hành vi.

Quan sát có can thiệp có 3 dạng cơ bản sau: Quan sát có tham gia, quan sát có cấu trúc và quan sát thực nghiệm.

2.2.1. Quan sát có tham gia

Quan sát có tham gia là người quan sát hành vi giữ vai trò tích cực và có ý nghĩa trong tình huống mà hành vi đó được ghi lại. Trong quan sát có tham gia không cần phải ngụy trang, những cá nhân được quan sát biết người quan sát có mặt, nhằm mục đích thu thập thông tin về hành vi của họ. Khi người quan sát không được các thành viên biết thì đó là sự quan sát có tham gia nhưng ngụy trang. Phương pháp này được sử dụng nhiều trong tâm lý học khi nghiên cứu hành vi của một nhóm người.

Việc quan sát có tham gia cho phép người quan sát tham gia vào những tình huống thường khó quan sát về mặt khoa học. Ngoài ra người quan sát thường ở vào vị trí để có những hành động, suy nghĩ như người bị quan sát. Nó tạo điều kiện để hiểu được cá nhân hoặc nhóm.

Sự hiện diện của người quan sát có thể làm nảy sinh một số vấn đề sau:

- Có thể người quan sát làm mất tính khách quan mà việc quan sát đòi hỏi. Bản thân người quan sát có thể thay đổi trong quá trình quan sát mà trước đó không dự đoán được.

- Tác động của người quan sát đối với hành vi của người bị quan sát. Điều này dễ xảy ra khi người quan sát giữ vai trò nhóm trưởng hoặc có quan hệ với những người ra quyết định... Như vậy rất khó khái quát kết luận này cho những tình huống khác nhau nếu sự can thiệp tạo nên hành vi mà nó đặc thù cho những điều kiện và hiện tượng mà người quan sát tạo nên.

Ảnh hưởng của người quan sát đến hành vi đang quan sát phụ thuộc vào sự quan sát được ngụy trang hay không được ngụy trang, vào quy mô nhóm, vai trò của người quan sát trong nhóm. Khi nhóm được quan sát là nhỏ hoặc những hành động của nó là rõ ràng thì ảnh hưởng của người quan sát đến hành vi của đối tượng là đáng kể.

2.2.2. Quan sát cấu trúc

Đó là quá trình quan sát có sự kiểm soát của nhà nghiên cứu nhưng mức độ kiểm soát ít hơn trong thực nghiệm.

Quan sát can thiệp vào nhằm làm cho một hiện tượng hay tình huống xảy ra, hoặc dựng lên một tình huống để dễ dàng ghi lại những hành vi khó quan sát. Trong một số trường hợp, người quan sát có thể tạo nên những quy trình để quan sát một hành vi riêng lẻ một cách đầy đủ hơn.

Quan sát cấu trúc có thể tiến hành trong tự nhiên hoặc thực nghiệm.

2.2.3. Quan sát trong thực nghiệm

Thực nghiệm là qui trình được tiến hành khi người quan sát điều khiển một hoặc nhiều thông số tự do trong môi trường tự nhiên nhằm xác định hiệu quả của chúng đối với hành vi. Khi tiến hành thực nghiệm trên hiện trường, người quan sát kiểm soát được diễn biến của hiện tượng nhằm mục đích đo lường một cách hệ thống hiệu quả của một thông số nào đó lên hành vi. Người ta sử dụng việc kiểm soát và so sánh các nhóm. Trong quan sát này, người quan sát đưa ra nhiệm vụ cho các đối tượng. Trong tâm lý học, phương pháp quan sát này được dùng nhiều nhất. Trong nhiều trường hợp, đối tượng không biết rằng họ đang tham gia vào một cuộc thực nghiệm. Trong thực nghiệm ở hiện trường, nhà nghiên cứu sử dụng người cùng tham gia. Đó là người mà nhà nghiên cứu đã hướng dẫn để tạo nên tình huống cần nghiên cứu. Thực nghiệm trên hiện trường đòi hỏi phải có kiến thức thực hành đầy đủ.

Một nghiên cứu về sự ảnh hưởng cảm xúc của người lớn tới cảm xúc của trẻ 2 tuổi được tiến hành như sau: từng cặp trẻ em được mang tới phòng chơi thí nghiệm cùng với mẹ của chúng. Trong khi trẻ chơi, hai người lớn vào phòng và đầu tiên tiếp xúc với trẻ một cách thân thiện, vui vẻ, tiếp theo là tỏ vẻ giận giữ và cuối cùng lại là phong cách thân thiện. Các phản ứng về cảm xúc của trẻ 2 tuổi (đặc biệt là các biểu hiện trên cơ thể và nét mặt về sự lo lắng và các âm thanh như khóc) trong các giai thực nghiệm khác nhau được các quan sát viên ghi lại. Bên cạnh đó, một nhóm trẻ nhất định chứng kiến người lớn tham gia vào ba cuộc giao tiếp bình thường. Kết quả cho thấy sự thay đổi thành giận giữ của người lớn tạo ra những lo lắng đáng kể hơn đối với trẻ 2 tuổi so với phản ứng của chúng với sự thay đổi thành thân thiện.

2.3. Tự quan sát

Tự quan sát cũng được nhà tâm lý học sử dụng, đó là các hình thức tự viết tiểu sử, thư, nhật ký, tự phân tích các câu hỏi. Việc tự quan sát có hệ thống thường được tiến hành dưới dạng những câu trả lời cho các phiếu điều tra do người nghiên cứu đề ra.

3. Quy trình quan sát

Theo các nhà tâm lý học, quan sát thường có những quá trình cơ bản sau:

- Xác định mục đích, nhiệm vụ quan sát (quan sát để làm gì, nhằm mục đích gì).

- Lựa chọn khách thể, đối tượng, tình huống quan sát (quan sát cái gì).

- Lựa chọn phương pháp quan sát ảnh hưởng nhất đến đối tượng được nghiên cứu và bảo đảm thu nhập được những thông tin cần thiết (quan sát như thế nào).

- Lựa chọn các phương pháp ghi chép những điều đã quan sát (ghi chép như thế nào).

- Xử lý và phán đoán thông tin đã thu được (kết quả như thế nào).

Nhiệm vụ quan sát là định hướng ban đầu về khách thể, đề xuất giả thuyết, kiểm tra giả thuyết, chính xác hóa những kết quả thu được nhờ những phương pháp khác. Khách thể quan sát có thể là những con người cụ thể trong các tình huống giao tiếp khác nhau trong nhóm lớn, nhóm nhỏ, trong cộng đồng. Những tình huống quan sát có thể là tình huống tự nhiên hoặc thực nghiệm do người quan sát điều khiển hay không điều khiển, bất chợt hoặc có tổ chức, theo chuẩn hay không theo chuẩn, bình thường hay cực đoan, khác nhau về dạng hoạt động, về sự tiếp xúc, và mối quan hệ qua lại giữa con người, về tình huống giao tiếp...

Đối tượng của quan sát trong tâm lý học là những hành động, ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của hành vi con người đang xảy ra trong một nhóm hay vài nhóm, trong môi trường và tình huống nhất định. Có thể quan sát những loại hành động sau:

- Những hành động nói, nội dung của chúng, tính kế tiếp, tính định hướng, tần số, tính liên tục, cường độ, tính diễn cảm, đặc điểm của ngôn từ, ngữ pháp, phát âm của các hành động này.

- Những cử chỉ diễn cảm biểu hiện qua nét mặt, thái độ hành động.

- Cử chỉ, di chuyển, trạng thái đứng im của con người, khoảng cách giữa người này với người kia, tốc độ và phương hướng chuyển động, sự va chạm.

- Tác động: va chạm, ủng hộ, cùng cố gắng chuyền cho nhau, giữ lại.

- Sự kết hợp giữa dấu hiệu kể trên.

Vào năm 1940, khi nghiên cứu mối quan hệ giữa các cá nhân, E.Tripơn đề nghị đo lường số lượng thời gian, nhịp độ, tính tích cực, tính hòa hợp, sáng kiến, sự chiếm ưu thế và những tiêu chí khác của những người tham gia. Theo I.P.Vôđônốp, những dấu hiệu của các mối quan hệ giữa các cá nhân được ghi chép phải là tình huống, tính kế tiếp, tính định hướng của quan hệ.

Phương pháp quan sát được quy định bởi nhiệm vụ, đối tượng, tình huống, tính chất tương tác giữa người quan sát và người được quan sát. Người ta phân biệt kiểu quan sát có tham gia khi người quan sát là một thành viên của nhóm được nghiên cứu và quan sát không tham gia; công khai và quan sát kín; quan sát tự nhiên và thực nghiệm. Nếu xét về tính tổ chức của quan sát có thể phân biệt quan sát ngẫu nhiên và có hệ thống, quan sát chung và có lựa chọn. Theo tính chất việc ghi lại có thể phân biệt quan sát đơn thuần và quan sát có đánh giá hoặc hỗn hợp.

Phương pháp quan sát ghi lại các quá trình, các hiện tượng được quan sát khác nhau về độ chính xác về tính toàn diện, về độ tin cậy, về tính có căn cứ của thông tin, về khả năng kỹ thuật và tâm lý, về hình thức và ngôn ngữ ghi chép, về hướng của quá trình ghi chép, mã hóa và giải mã, phân tích về việc sử dụng các thang bậc khác nhau.

4. Ghi chép trong quan sát

Hai đặc trưng quan trọng của phương pháp quan sát: Đặc trưng thứ nhất là mức độ can thiệp của người quan sát. Đặc trưng thứ hai là phương pháp ghi chép hành vi. Các phương pháp quan sát cũng khác nhau ở cách ghi lại hành vi, nhất là ở mức độ mà hành vi đó được khái quát hóa, trừu tượng tình huống được quan sát.

Phương pháp ghi chép hành vi được phân loại theo kiểu mô tả lại một cách đầy đủ hành vi và tình huống xảy ra hành vi theo cách tập trung hay một vài loại hành vi nhất định. Ghi chép tất cả hành vi đang diễn ra. Cách ghi chép phụ thuộc vào việc nhà nghiên cứu tiến hành nghiên cứu định tính hay định lượng.

4.1. Ghi chép mô tả

Việc ghi chép mô tả nhằm tái hiện lại hành vi như nó đã xảy ra một cách trung thành ở mức độ nhất định nhiều hay ít. Loại hình chủ yếu của ghi chép mô tả là việc người quan sát thuật lại hành vi.

Khi thu được những bản ghi chép mô tả, người quan sát có thể phân loại, sắp xếp lại những điều đã ghi. Khi xem xét số liệu có thể thử nghiệm những giả thuyết riêng lẻ... Điều này nói lên sự khác nhau quan trọng giữa việc ghi chép mô tả và các hình thức khác của việc đo lường hành vi. Như vậy ghi chép mô tả ghi được thông tin đặc biệt cần thiết để đánh giá mục đích hay giả thuyết của việc nghiên cứu.Việc ghi chép trong khi quan sát có thể bao gồm và thực hiện việc ghi chép trong suốt quá trình quan sát, biểu đồ (để minh hoạ vị trí tương ứng của người tương tác cùng chẳng hạn), bức ảnh, đoạn phim quay lại, vvv. Neuman (1991) đã liệt kê những hình thức ghi chép trong khi quan sát được sử dụng phổ biến nhất. Đầu tiên, có kiểu sổ tay bỏ túi, nó được dùng trong lúc quan sát trên thực địa. Kiểu ghi chép này nhìn chung rất là ngắn gọn, thông thường là một số từ được ghi lại nhằm hỗ trợ trí nhớ về sau nó sẽ sao chép lại với sự mở rộng hơn sau mỗi buổi quan sát. Đôi khi đòi hỏi các nhà quan sát trong đo lường có thể tính toán chính xác những hoạt động và đề xuất nội dung quan sát. Ghi chép trong khi quan sát không chỉ bao gồm những từ mà còn có thể lựa chọn biểu đồ nhằm mục đích giới thiệu một số thông tin theo cách phù hợp nhất. Những biểu đồ cho phép nhà nghiên cứu tổ chức một số sự kiện trong một số hoàn cảnh quan sát. Những cuốn băng video được quay có thể là một công cụ rất có ý nghĩa nhằm thể hiện những buổi quan sát.

Chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng việc ghi chép trong tiến trình quan sát phải được thực hiện ngay khi có thể, sau những buổi quan sát. Nhìn chung nên ghi chép một cách chính xác về thời gian, địa điểm những sự kiện liên quan cũng như ghi lại thời gian kéo dài một cách chính xác. Những phần này tách rời nhau được sử dụng để ghi lại những ghi chép trong quan sát một cách trực tiếp, những ghi chép cá nhân cũng như những phần diễn giải.

4.2. Thu thập những số đo định lượng trong quan sát

Các diễn biến hành động cần được quan sát sẽ chỉ xảy ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, người nghiên cứu cần xác định các hành vi trước khi quan sát. Người nghiên cứu còn có thể đo được số lần xuất hiện những hành vi tức là cách định lượng hóa hành vi.

Khi đo lường hành vi cũng phải qui định thang đo.

Kết quả quan sát có thể ghi lại như sau: địa điểm, thời gian quan sát, số lượng các phương tiện tham gia vào hành vi tần xuất xuất hiện, chủng loại, biểu cảm của hành vi, hậu quả của hành vi...

Trong một nghiên cứu theo dõi hành vi gây gổ của trẻ em, nhà quan sát ghi lại tất cả những biểu hiện của hành vi này trong khoảng thời gian quan sát một giờ đồng hồ. Trước tiên một danh sách các hành vi đáng quan tâm được chuẩn bị. Sau đó nhà quan sát chia toàn bộ khoảng thời gian quan sát thành một chuỗi những khoảng thời gian ngắn. Ví dụ, một khoảng thời gian quan sát 30 phút có thể được chia thành 120 khoảng thời gian, mỗi khoảng là 15 giây. Nhà quan sát này thu thập số liệu bằng cách luân phiên theo dõi đứa trẻ này trong một khoảng thời gian và sau đó kiểm tra các hành vi trong khoảng thời gian tiếp theo và lặp đi lặp lại quá trình này cho đến khi toàn bộ khoảng thời gian quan sát được thực hiện.

Ví dụ: Sử dụng phương pháp quan sát để nghiên cứu những yếu tố có ý nghĩa về thái độ của những người tham gia hội nghị như sau:

- Có quan tâm đến thông tin được thông báo báo (lời nói, tiếng reo hò, vỗ tay tán thưởng, yêu cầu thông tin bổ sung, nêu câu hỏi đối với người phát biểu, trao đổi liên quan đến vấn đề của hội nghị)

- Thiếu quan tâm đến thông tin được thông báo (trao đổi về các vấn đề ngoài nội dung của hội nghị, làm việc khác)

Những yếu tố của hành vi này được ghi theo mức độ thể hiện của 6 nhóm người: 1- Chủ tịch đoàn; 2 – Đa số thính giả; 3 – Khoảng một nửa thính giả; 4 – Một số ít thính giả; 5 – Một vài người; 6 – Một hai người

Bảng 2: biểu hiện hành vi của người tham gia hội nghị

Những yếu tố của hành vi

Mức thể hiện theo nhóm

Ghi chú của người quan sát

1

2

3

4

5

6

Những lời, tiếng reo hò, vỗ tay tán thưởng

(Các sự kiện không tiêu chuẩn hóa, nếu có).

Những tiếng reo hò không tán thưởng

Yêu cầu thông tin bổ sung

Những câu hỏi liên quan đến người phát biểu

Những trao đổi liên quan đến những vấn đề được đề cập

Thái độ trung lập (không có phản ứng)

Những lời yêu cầu giữ trật tự

Những lời yêu cầu giữ đúng thời gian quy định

Những cuộc trao đổi về đề tài khác

Những trao đổi không liên quan đến vấn đề của hội nghị

Làm việc khác.

R.F. Bales đã đưa ra sơ đồ ghi chép hành vi để phân tích mối quan hệ tác động lẫn nhau trong các nhóm nhỏ. Sơ đồ này được rút ra từ lý thuyết về nhóm bao gồm 12 phạm trù quan sát tương ứng với 2 vấn đề trong nghiên cứu nhóm nhỏ: hành vi cảm xúc xã hội và hành vi thực hiện nhiệm vụ.

A. Phạm vi mang tính xúc cảm xã hội: các phản ứng

1. Biểu lộ tình đoàn kết, giúp đỡ khen thưởng tăng thêm sức mạnh cho người khác.

2. Không khí giảm căng thẳng, đùa, cười, biểu lộ sự hài lòng.

3. Đồng tình, hiểu biết, phù hợp, sự suy giảm.

B. Phạm vi nhiệm vụ: tìm trả lời

4. Nêu các kiến nghị, các hướng dẫn trong đó tính độc lập của cách những người khác được đồng tình ủng hộ.

5. Bộc lộ quan điểm, đánh giá, phân tích biểu lộ tình cảm hoặc ý muốn.

6. Định hướng, thông báo, giải thích, chứng nhận.

C. Phạm vi nhiệm vụ: các câu hỏi

7. Hỏi về sự định hướng, thông báo, nhắc lại, sự chứng nhận.

8. Hỏi về các quan điểm, chính kiến, đánh giá, phân tích, biểu thị cảm giác.

9. Đưa ra các đề nghị, hướng dẫn các phương thức tiến hành khả thi.

D. Phạm vi mang tính xúc cảm xã hội các phản ứng tiêu cực

10. Không đồng ý, biểu lộ sự từ chối tiêu cực, hình thức, không giúp đỡ.

11. Biểu lộ sự căng thẳng, yêu cầu được giúp đỡ, rút lui.

12. Biểu lộ sự phản kháng, hạ thấp đối phương, bảo vệ hoặc tự quả quyết.