Tại sao nước ta có tiềm năng về thủy điện

Trung du và miền núi Bắc Bộ nước ta có các đặc điểm thuận lợi và phù hợp để phát triển thủy điện như sau:- Điều kiện tự nhiên: đây là nơi có nhiều dãy núi cao, là nơi phát nguyên của các dòng sông, sông nhiều, sườn dốc, đây là đặc điểm phù hợp để xây dựng nhà máy thủy điện

=>  Các sông suối có trữ năng thủy điện khá lớn. Hệ thống sông Hồng (11 triệu kWW) chiếm hơn 1/3 trữ năng thủy điện của cả nước. Riêng sông Đà chiếm gần 6 triệu kWW. Nguồn thủy năng lớn này đã và đang được khai thác. Nhà máy thủy điện Thác Bà trên sông Chảy (110 MW). Nhà máy thủy điện Hòa Bình trên sông Đà (1.920 MW). Hiện nay, đang triển khai xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La trên sông Đà (2.400 MW), thủy điện Tuyên Quang trên sông Gâm (300 MW)
Ngoài ra, nhà nước đã và đang tạo mọi điều kiện và chính sách thuận lợi để phát triển thủy điện ở trung du và miền núi bắc bộ.

Giải thích vì sao khu vực miền núi nước ta có tiềm năng thủy điện lớn? A. vùng núi nước ta có lượng mưa lớn và tập trung. B. nhiều sông ngòi, địa hình dốc, nhiều thác ghềnh. C. sông lớn và dài, nước chảy quanh năm.

D. ¾ diện tích lãnh thổ nước ta là đồi núi.

Cùng với đất, rừng và các loại tài nguyên, khoáng sản khác, tiềm năng thuỷ điện được xem là một trong những thế mạnh của tỉnh. Khai thác tốt tiềm năng này sẽ tạo cơ hội lớn thúc đẩy KT - XH tỉnh ta phát triển.

Tiềm năng lớn

Tại sao nước ta có tiềm năng về thủy điện

Toàn cảnh thuỷ điện Bản Chát.

Độ dốc cao và hệ thống sông, suối dày là những yếu tố thuận lợi để tỉnh ta có một lưu lượng thuỷ lưu rất lớn và rất thuận lợi cho việc phát triển thuỷ điện, đặc biệt là thuỷ điện vừa và nhỏ.

Trên sông Đà, ngoài 2 thuỷ điện: Sơn La, Hoà Bình thì Thuỷ điện Lai Châu đã được Quốc hội thông qua, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chuẩn bị khởi công xây dựng vào cuối năm nay tại xã Nậm Hàng (huyện Mường Tè). Đây là thuỷ điện lớn thứ ba cả nước với công suất thiết kế 1.200MW. Hay như sông Nậm Mu đoạn qua huyện Than Uyên, hiện nay 2 công trình Thuỷ điện Bản Chát, Huội Quảng đang được triển khai thi công với tổng công suất phát máy 780MW và sẽ chính thức phát điện các tổ máy vào năm 2012. Trên sông Nậm Na cũng đang có 3 công trình Thuỷ điện Nậm Na 1, Nậm Na 2, Nậm Na 3 với tổng công suất 180MW…

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có khoảng 70 điểm có thể xây dựng các nhà máy thuỷ điện vừa và nhỏ với công suất từ 1 – 30MW. Đây thực sự là nguồn tiềm năng thuỷ điện rất lớn và quan trọng. Nếu khai thác triệt để, nguồn năng lượng này sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.

Đến nay, đã có 49 công trình thuỷ điện được phê duyệt quy hoạch và cấp phép xây dựng với tổng công suất trên 2.418MW. Khi hoàn thành và đi vào hoạt động các công trình này sẽ cung cấp một sản lượng điện lớn bình quân trên 10 tỷ KWh mỗi năm…

Theo đánh giá của Bộ Công thương, nếu không tính đến tiềm năng phát triển thuỷ điện lớn và vừa; tiềm năng thuỷ điện của tỉnh ta đứng thứ 2 trong khu vực các tỉnh biên giới phía Bắc về thuỷ điện nhỏ khi hòa vào lưới điện quốc gia với tổng công suất dự kiến 272MW.

Nhiều cơ hội phát triển kinh tế

Từ việc phát triển thuỷ điện sẽ mở ra hàng loạt những cơ hội trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh ta. Khi các công trình thủy điện hoàn thành và đi vào hoạt động sẽ sản xuất một sản lượng điện năng lớn hoà vào lưới điện quốc gia, làm giảm tình trạng thiếu hụt điện năng trong cả nước cũng như tỉnh ta như hiện nay. Không những thế, việc phát triển thuỷ điện còn đem lại cơ hội cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh; tạo công ăn việc làm cho lao động địa phương.

Hơn thế nữa khi phát triển thuỷ điện, ngân sách của tỉnh sẽ có thêm nguồn thu, đặc biệt là nguồn thu từ quỹ chia sẻ lợi ích từ thuỷ điện để đầu tư cải thiện môi trường sống cho chính những người dân trong vùng bị ảnh hưởng. Đó là còn chưa kể đến hàng loạt những lợi ích như việc tạo ra ngành nghề mới trong tương lai, phát triển được hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông kỹ thuật, bảo vệ môi trường, điều hoà sinh thái…

Đó chỉ là những thuận lợi chung ở tầm vĩ mô đã, đang và có thể nhìn thấy ở tương lai. Tuy nhiên có những thuận lợi, những cái cụ thể, vi mô mà chúng ta đã và đang nhìn thấy ngay trên địa bàn tỉnh. Cụ thể như việc xây dựng Thuỷ điện Sơn La, dù chưa thể nhìn thấy ngay cái thuận lợi trong giao thông đường thuỷ giữa tỉnh ta và các tỉnh bạn. Hay việc phát triển các ngành nghề mới như du lịch sinh thái, phát triển thuỷ sản… Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy ngay việc bố trí sắp xếp lại hàng nghìn hộ dân tại các khu tái định cư gắn với vùng quy hoạch phát triển cây công nghiệp mà cụ thể là phát triển cây cao su của tỉnh như hiện nay. Không chỉ vậy, từ việc tái định cự mà cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại ở những vùng này có cơ hội được đầu tư đồng bộ. Đời sống của người dân cũng ổn định và phát triển hơn.

Ngoài ra, cũng có thể thấy ngay những lợi ích cơ bản mà thuỷ điện nhỏ mang lại như Thuỷ điện Nậm Sì Lường cung cấp cho trên 100 hộ dân xã Bum Nưa cũng như khối cơ quan hành chính trên địa bàn thị trấn Mường Tè (huyện Mường Tè) trong một thời gian dài, khi mà điện lưới quốc gia chưa đến được với trung tâm huyện, mặc dù công suất thiết kế của thuỷ điện này rất nhỏ chỉ 0,5MW…

Trong chuyến thăm và làm việc tại tỉnh ta vào cuối tháng 1/2010, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đánh giá: Thuỷ điện là một lợi thế lớn của Lai Châu, việc xây dựng các nhà máy thuỷ điện sẽ tạo cơ hội để tiến hành quy hoạch, xây dựng hệ thống giao thông, sắp xếp dân cư và hình thành thêm những ngành nghề sản xuất mới cho các hộ tái định cư. Tổng Bí thư nhấn mạnh, xây dựng thuỷ điện sẽ mang lại nguồn ngân sách cho đầu tư phát triển và là cơ hội để Lai Châu thực hiện các mục tiêu xoá đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn, nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn và quan trọng hơn là cơ hội để bố trí lại dân cư theo mô hình nông thôn mới với những tiêu chí cụ thể.

Rõ ràng với những lợi ích về kinh tế, xã hội, có thể khẳng định rằng việc phát triển thuỷ điện đã và đang tạo ra nhiều thuận lợi cho tỉnh ta phát triển kinh tế - xã hội. Hơn thế nữa, những cơ hội mới, những ngành nghề mới… trong tương lai từ việc phát triển thuỷ điện mang lại sẽ là cơ hội thúc đẩy kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển bền vững.

Khó khăn chủ yếu của vùng đồi núi là:

Tiềm năng phát triển du lịch ở miền núi nước ta dựa vào:

Ý nào sau đây không phải là thuận lợi chủ yếu của khu vực đồng bằng?

Khu vực miền núi nước ta có tiềm năng thủy điện lớn vì:

Bão, lũ lụt, hạn hán, gió tây khô nóng là thiên tai xảy ra chủ yếu ở vùng

Sông ngòi chảy qua vùng đồi núi có giá trị nổi bật nào?

Điểm giống nhau giữa đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là

Điểm nào sau đây không nổi bật ở đồng bằng sông Hồng?

Khai thác, sử dụng nguồn thủy điện Việt Nam

Lãnh thổ Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, có lượng mưa trung bình hàng năm cao, khoảng 1.800 - 2.000mm. Với địa hình miền Bắc và biên giới miền Tây đồi núi cao, phía Đông là bờ biển dài trên 3.400km nên nước ta có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, với hơn 3.450 hệ thống. Và với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên tiềm năng thuỷ điện của nước ta tương đối lớn.

Theo tính toán lý thuyết, tổng công suất thủy điện của nước ta vào khoảng 35.000MW, trong đó 60% tập trung tại miền Bắc, 27% phân bố ở miền Trung và 13% thuộc khu vực miền Nam. Tiềm năng kỹ thuật (tiềm năng có thể khai thác khả thi) vào khoảng 26.000MW, tương ứng với gần 970 dự án được quy hoạch, hàng năm có thể sản xuất hơn 100 tỷ kWh, trong đó nói riêng thuỷ điện nhỏ có tới 800 dự án, với tổng điện năng khoảng 15 - 20 tỉ kWh/năm.

Có thể nói, cho đến nay các dự án thủy điện lớn có công suất trên 100MW hầu như đã được khai thác hết. Các dự án có vị trí thuận lợi, có chi phí đầu tư thấp cũng đã được triển khai thi công. Còn lại trong tương lai gần, các dự án thủy điện công suất nhỏ sẽ được đầu tư khai thác.

Trong những năm qua, ngoài các dự án lớn do EVN đầu tư, có nguồn vốn và kế hoạch thực hiện đúng tiến độ, thì các dự án vừa và nhỏ do chủ đầu tư ngoài ngành điện thường chậm tiến độ, hoặc bị dừng. Lý do của tình trạng các dự án chậm tiến độ hoặc bị dừng là do: (1) Nền kinh tế nước ta trong thời gian qua gặp khó khăn. (2) Các dự án không hiệu quả, không đủ công suất như trong quy hoạch và nghiên cứu khả thi, hoặc chi phí đầu tư quá cao, khó khăn trong việc hoàn vốn. (3) Các dự án chủ đầu tư không đủ năng lực tài chính, hoặc chủ đầu tư không có kinh nghiệm quản lý dự án, tự thi công dẫn đến chất lượng công trình kém và thời gian kéo dài. (4) Một số dự án gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, chặt phá rừng trên diện rộng, ảnh hưởng đến hạ du... bị thu hồi, tạm loại ra khỏi quy hoạch.

Ở nước ta, thủy điện chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu sản xuất điện. Hiện nay, mặc dù ngành điện đã phát triển đa dạng hóa nguồn điện, nhưng thủy điện vẫn đang chiếm một tỷ trọng đáng kể. Năm 2014, thủy điện chiếm khoảng 32% trong tổng sản xuất điện. Theo dự báo của Quy họach điện VII (QHĐ VII) thì đến các năm 2020 và 2030 tỷ trọng thủy điện vẫn còn khá cao, tương ứng là 23%.

Ngoài mục tiêu phát điện, các nhà máy thủy điện còn có nhiệm vụ cắt và chống lũ cho hạ du trong mùa mưa bão, đồng thời cung cấp nước phục vụ sản xuất và nhu cầu dân sinh trong mùa khô.

Thủy điện nhỏ

Theo phân cấp của Việt Nam, các nguồn thủy điện có công suất đến 30MW thì được phân loại là thủy điện nhỏ. Các nguồn thủy điện có công suất lớn hơn gọi là thủy điện lớn.

Tuy nhiên, theo Tổ chức thủy điện nhỏ của Liên hiệp quốc (Small Hydropower UNIDO), thì các nguồn thủy điện có công suất từ 200 kW - 10 MW gọi là thủy điện nhỏ, còn các nhà máy có công suất từ 10 MW - 100 MW là thủy điện vừa.

Như vậy, theo phân loại của Việt Nam thì thủy điện nhỏ (công suất £ 30MW) đã bao gồm các thủy điện vừa. Điều này có nghĩa là đối với các dự án thủy điện nhỏ có công suất trên 15MW cũng cần phải chú ý thẩm định nghiêm túc về quy hoạch, thiết kế, xây dựng và về các tác động môi trường và xã hội.

Như đã biết, các dự án thủy điện lớn có thể gây ra những tác động tiêu cực về môi trường và xã hội. Các dự án này cần có hồ chứa rất lớn nên dẫn đến mất rất nhiều diện tích đất đai, trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp; hàng nghìn vạn hộ dân phải di dời, tái định cư; một khu vực văn hóa trong diện tích lòng hồ bị chôn vùi; lượng phát thải khí nhà kính (chủ yếu là mê tan) được tạo ra do các sinh vật bị ngập trong hồ gây ra...

Khác với thủy điện lớn, thủy điện nhỏ có quy mô nhỏ, các tác động về môi trường và xã hội thường không lớn nên nó được xếp vào các nguồn năng lượng tái tạo. Ở các công trình thủy điện nhỏ, quy mô công trình thường là đập thấp, đường dẫn nhỏ, khối lượng xây dựng không lớn, diện tích chiếm đất không nhiều và vì vậy mà diện tích rừng bị chặt phá phục vụ công trình cũng không lớn. Mỗi trạm thủy điện nhỏ thường chỉ có 2-3 tổ máy, máy biến áp, trạm phân phối điện và đường dây tải điện 35kV hoặc 110kV. Các nhà máy thủy điện nhỏ nếu có hồ chứa thì dung tích cũng bé, hoặc không có hồ chứa. Nhiều nhà máy chạy bằng lưu lượng cơ bản của sông suối thông qua xây dựng đập dâng. Vì lý do đó, nên thủy điện nhỏ không làm được nhiệm vụ chống lũ cho hạ lưu.

Theo đánh giá, tiềm năng thủy điện nhỏ của Việt Nam vào khoảng 4.000MW, trong đó loại nguồn có công suất từ 100kW-30MW chiếm 93- 95%, còn loại nguồn có công suất dưới 100kW chỉ chiếm 5 - 7%, với tổng công suất trên 200MW.

Về hiệu quả kinh tế thì thủy điện nhỏ không bằng thuỷ điện lớn. Theo thống kê từ các công trình thủy điện đã và đang vận hành thì suất đầu tư thủy điện nhỏ vào khoảng 25 - 30 tỉ đồng/MW, trong khi đối với thủy điện lớn là 20 - 25 tỉ đồng/MW (tính theo mặt bằng giá năm 2011).

Theo phân cấp, việc cấp phép đầu tư các dự án thủy điện nhỏ thuộc thẩm quyền của UBND các tỉnh. Và cũng do quy mô nhỏ nên trong nhiều năm qua, nhiều địa phương đã buông lỏng quản lý, dẫn đến việc quy hoạch, thiết kế, thẩm định và vận hành không phù hợp nên nhiều dự án thủy điện nhỏ đã gây ra các tác động tiêu cực về môi trường, xã hội không nhỏ cho người dân xung quanh các dự án.

Về thiết bị, trong thời gian qua, các dự án thủy điện nhỏ gần như đều nhập thiết bị công nghệ của Trung Quốc, có chất lượng trung bình, giá thấp hơn các nước khác.

Cũng cần nhấn mạnh rằng, qua nhiều năm xây dựng, phát triển thuỷ điện, lực lượng cơ khí trong nước cũng đã có những bước trưởng thành. Trong nước đã sản xuất, chế tạo và đưa vào sử dụng có hiệu quả các thiết bị cơ khí thuỷ công như: các cửa van đập tràn, cửa nhận nước, nhà máy, đường ống áp lực, cầu trục gian máy, máy biến áp các loại… Do vậy, cần tận dụng tốt các sản phẩm này và có chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chế tạo thiết bị trong nước.

Những bất cập

Theo phân loại của Việt Nam thì thủy điện nhỏ (công suất £ 30MW) đã bao gồm các thủy điện vừa. Điều này có nghĩa là cũng cần phải xem xét, thẩm định nghiêm túc về tác động về môi trường và xã hội của các dự án thủy điện nhỏ có công suất lớn.

Như đã nói ở trên, bản thân một công trình thủy điện nhỏ, diện tích chiếm đất và diện tích rừng sử dụng cho một công trình là tương đối nhỏ. Tuy nhiên, trong thực tế, diện tích rừng bị chặt phá nhiều do chủ đầu tư lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo và do làm đường giao thông đến công trình.

Ngoài ra, một hệ lụy tiêu cực khác là khi đã có đường qua rừng thì lâm tặc đã lợi dụng để chặt phá rừng, vận chuyển, buôn bán gỗ lậu... làm cho diện tích rừng bị tàn phá lớn hơn nhiều lần diện tích cần cho nhà máy thủy điện nhỏ.

Theo quy định của Chính phủ, sau khi xây dựng xong công trình, chủ đầu tư phải tổ chức thi công khôi phục lại hiện trường như phá dỡ, thu dọn nhà xưởng, san lấp lại mặt bằng tất cả các vị trí đã đào bới, trồng lại rừng để bù vào diện tích rừng bị phá… Tuy nhiên, không ít nhà đầu tư đã không chấp hành nghiêm túc các quy định này, dẫn đến môi trường ở các công trình thủy điện nhỏ bị tàn phá không hề nhỏ.

Một bất cập khác là do công tác điều tra, khảo sát nguồn thủy năng không đầy đủ nên một số nhà máy thủy điện nhỏ hoạt động với hệ số công suất rất thấp. Nhà máy chỉ vận hành được trong các tháng mùa mưa. Còn trong các tháng mùa khô công suất phát rất thấp, thậm chí không thể hoạt động.

Kết luận

Để khai thác, phát triển thủy điện bền vững thì từ công tác lập quy hoạch, lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thi công xây dựng công trình cho đến quản lý vận hành… phải tuyệt đối tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình. Ngoài ra, cần bảo đảm chất lượng công trình cũng như phải có kịch bản ứng phó liên quan đến các sự cố đập và giảm nhẹ thiên tai cho cộng đồng.

Tiếp tục rà soát quy hoạch, rà soát các công trình đang triển khai xây dựng để đảm bảo chất lượng, an toàn công trình và đáp ứng yêu cầu về môi trường.

Đối với các chủ đầu tư thực hiện không nghiêm túc các yêu cầu đảm bảo chất lượng, an toàn công trình và đáp ứng yêu cầu về môi trường cần kiên quyết yêu cầu dừng thi công để khắc phục. Đồng thời, rà soát các dự án đã được cấp phép nhưng chưa triển khai, nếu năng lực của các chủ đầu tư không đảm bảo theo quy định cần thu hồi dự án.

Với các dự án đã hoàn thành, nhưng chưa thực hiện đủ các yêu cầu của pháp luật quy định sẽ không cấp phép hoạt động điện lực. Tiếp tục rà soát quy trình vận hành hồ chứa, đề xuất điều chỉnh bổ sung nếu còn những nội dung không hợp lý. Kiên quyết xử lý những nhà máy thủy điện không thực hiện đúng quy trình vận hành đã được phê duyệt. Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng sẽ đề nghị chuyển sang cơ quan chức năng để xử lý.

TS. ĐẶNG ĐÌNH THỐNG

(Sao chép, trích dẫn nội dung từ bài viết này phải ghi rõ "nguồn", hoặc "theo": TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM)

Tài liệu tham khảo

1. QĐ 3454/QĐ-BCT ngày 18-10-2005.

2. Ng. Đ. Cường, Đ. Đ. Thông và các tác giả khác: Hiện trạng khai thác, sử dụng năng lượng mới trên thế giới và các vấn đề đặt ra đối với VN. Báo cáo KHCN, Hà Nội 2015.

3. Nguyễn Đức Đạt: Những vấn đề cần lưu ý trong đầu tư phát triển TĐ vừa và nhỏ. Nangluongvietnam, 18-7- 2012.

4. Tổng cục Năng lượng, (Bộ Công Thương).