Viết đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà

Tìm hiểu về đoạn văn tự sự, đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận, cùng với các ví dụ cụ thể và hướng dẫn mẫu cách viết đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà

Đoạn văn có yếu tố nghị luận là gì

Đoạn văn có yếu tố nghị luận là đoạn văn có cả yếu tố tự sự và yếu tố nghị luận. Yếu tố tự sự là những câu văn kể lại sự việc, còn yếu tố nghị luận là những câu văn nêu lên ý kiến, quan điểm của người viết về sự việc đó.

Các hình thức thể hiện yếu tố nghị luận trong đoạn văn có yếu tố nghị luận

Nêu ý kiến, quan điểm

Đây là hình thức thể hiện yếu tố nghị luận phổ biến nhất trong đoạn văn có yếu tố nghị luận. Ý kiến, quan điểm của người viết có thể được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp.

Ví dụ:

  • Trực tiếp:
    "Cuộc sống của con người là một chuỗi dài những thử thách. Tuy nhiên, chỉ khi vượt qua được những thử thách ấy, con người mới có thể trưởng thành và thành công."
  • Gián tiếp:
"Cuộc sống của con người luôn có những khó khăn, thử thách. Nhưng những khó khăn, thử thách ấy cũng là cơ hội để con người rèn luyện bản thân, trưởng thành và thành công."

Nêu nhận xét, đánh giá

Nhận xét, đánh giá là những câu văn thể hiện thái độ, tình cảm, cảm xúc của người viết đối với sự việc được kể.

Ví dụ:

"Hành động của bạn ấy thật đẹp và đáng trân trọng. Bạn ấy đã sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không cần toan tính thiệt hơn."

Nêu nguyên nhân, kết quả

Nguyên nhân, kết quả là những câu văn chỉ ra mối quan hệ giữa các sự việc, hiện tượng trong đoạn văn.

Ví dụ:

"Vì không chịu học hành chăm chỉ nên bạn ấy đã bị điểm kém."

Nêu giải pháp, biện pháp

Giải pháp, biện pháp là những câu văn đưa ra cách thức giải quyết, khắc phục vấn đề được nêu ra trong đoạn văn.

Ví dụ:

"Để tránh tình trạng mất điện, chúng ta cần tiết kiệm điện năng và sử dụng điện an toàn."

Vai trò của yếu tố nghị luận trong đoạn văn có yếu tố nghị luận

Yếu tố nghị luận có vai trò quan trọng trong đoạn văn có yếu tố nghị luận. Yếu tố nghị luận giúp đoạn văn trở nên sâu sắc, giàu ý nghĩa, truyền tải được thông điệp, bài học mà người viết muốn gửi gắm.

Ví dụ:

Đoạn văn có yếu tố nghị luận:
"Cuộc sống của con người là một chuỗi dài những thử thách. Tuy nhiên, chỉ khi vượt qua được những thử thách ấy, con người mới có thể trưởng thành và thành công. Những khó khăn, thử thách ấy cũng là cơ hội để con người rèn luyện bản thân, trở nên mạnh mẽ, kiên cường hơn. Vì vậy, chúng ta không nên sợ hãi trước những khó khăn, thử thách. Hãy luôn sẵn sàng đối mặt và vượt qua chúng."
Yếu tố nghị luận trong đoạn văn này thể hiện ở:
* Câu chủ đề: "Cuộc sống của con người là một chuỗi dài những thử thách. Tuy nhiên, chỉ khi vượt qua được những thử thách ấy, con người mới có thể trưởng thành và thành công."
* Câu nêu nhận xét, đánh giá: "Những khó khăn, thử thách ấy cũng là cơ hội để con người rèn luyện bản thân, trở nên mạnh mẽ, kiên cường hơn."
* Câu nêu nguyên nhân, kết quả: "Vì vậy, chúng ta không nên sợ hãi trước những khó khăn, thử thách. Hãy luôn sẵn sàng đối mặt và vượt qua chúng."
Đoạn văn này có yếu tố nghị luận giúp đoạn văn trở nên sâu sắc, giàu ý nghĩa hơn. Yếu tố nghị luận đã giúp người viết truyền tải được thông điệp: "Không nên sợ hãi trước những khó khăn, thử thách. Hãy luôn sẵn sàng đối mặt và vượt qua chúng."

Cách viết đoạn văn có yếu tố nghị luận

Để viết đoạn văn có yếu tố nghị luận hay, cần chú ý những điểm sau:

  • Lựa chọn sự kiện, hiện tượng để kể

Sự kiện, hiện tượng được kể trong đoạn văn phải có ý nghĩa, có giá trị nhân văn.

  • Lựa chọn yếu tố nghị luận phù hợp

Yếu tố nghị luận cần được lựa chọn phù hợp với sự kiện, hiện tượng được kể

Đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà

Dưới đây là cấu trúc của doạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà

Giới thiệu người bà

Bà tôi là một người phụ nữ giản dị, mộc mạc nhưng có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con cháu vô bờ bến. Bà sinh ra trong một gia đình nghèo khó, nhưng bà luôn lạc quan, yêu đời. Bà đã dành cả cuộc đời mình để chăm lo cho gia đình, nuôi dạy con cái nên người.

Kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giải dị mà sâu sắc của người bà đã làm cho em cảm động

Từ nhỏ, tôi đã sống cùng bà. Bà là người đã chăm sóc, nuôi nấng tôi nên người. Bà dậy tôi học, dạy tôi cách làm người. Bà luôn dành cho tôi những tình cảm yêu thương, trìu mến.

Tôi vẫn nhớ như in những câu chuyện cổ tích mà bà kể cho tôi nghe khi tôi còn nhỏ. Những câu chuyện ấy đã giúp tôi mở mang trí tuệ, nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Bà cũng dạy tôi cách làm người, cách đối nhân xử thế. Bà dạy tôi phải biết yêu thương, kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Bà dạy tôi phải biết giúp đỡ người khác, phải sống có ích cho xã hội.

Những lời dạy bảo của bà đã trở thành hành trang vô cùng quý giá trong cuộc sống của tôi. Tôi luôn ghi nhớ và cố gắng thực hiện những lời dạy ấy.

Nêu suy nghĩ của bản thân về người bà

Bà là người quan trọng nhất trong cuộc đời tôi. Tôi yêu bà rất nhiều. Bà là người đã mang đến cho tôi tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc và những bài học quý giá trong cuộc sống. Tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ công ơn của bà.

Yếu tố nghị luận trong đoạn văn

  • Đoạn văn kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giải dị mà sâu sắc của người bà đã làm cho em cảm động. Những việc làm, lời dạy bảo ấy thể hiện tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc của bà dành cho cháu. Qua đó, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, yêu thương con cháu vô bờ bến của người bà.
  • Đoạn văn kết thúc bằng suy nghĩ của bản thân về người bà. Suy nghĩ ấy thể hiện tình yêu thương, sự biết ơn của cháu đối với bà.

Cách viết đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà

Để viết được đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà, cần chú ý những điểm sau:

  • Kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giải dị mà sâu sắc của người bà đã làm cho em cảm động.
  • Nêu suy nghĩ của bản thân về người bà.
  • Lồng ghép yếu tố nghị luận vào đoạn văn một cách hợp lý, tự nhiên.

Ví dụ: Trong đoạn văn trên, tác giả đã lồng ghép yếu tố nghị luận vào đoạn văn bằng cách nêu lên những suy nghĩ về tầm quan trọng của người bà trong cuộc đời mỗi người. Tác giả cũng khẳng định rằng những lời dạy bảo của bà là hành trang vô cùng quý giá trong cuộc sống của mỗi người.

Trên đây là giải thích chi tiết về cách viết đoạn văn tự sự có yếu tố nghị luận về người bà. Hy vọng bài viết sẽ giúp các bạn học sinh viết được những đoạn văn hay và ý nghĩa.

Tìm hiểu Sự phát triển của từ vựng

Câu 1 – Thực hành tìm hiểu yếu tố nghị luận trong đoạn văn tự sự (Trang 160 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Đọc đoạn văn sau:

LỖI LẦM VÀ SỰ BIẾT ƠN

Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến đi, giữa hai người có xảy ra một cuộc tranh luận, và một người nổi nóng không kiềm chế được đã nặng lời miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không nói gì, chỉ viết lên cát: “Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã làm khác đi những gì tôi nghĩ”.

Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo, và quyết định đi bơi. Người bị miệt thị lúc nãy bây giờ bị đuối sức và chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm cách cứu anh. Khi đã lên bờ, anh lấy một miếng kim loại khắc trên đá: “Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi”.

Người kia hỏi: “Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên đá”?

Anh ta trả lời: “Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xoá nhoà theo thời gian, nhưng không ai có thể xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người”.

Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá.

(Hạt giống tâm hồn, tập 4, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2004)

Câu hỏi:

Trong đoạn văn trên, yếu tố nghị luận thể hiện ở những câu nào? Chỉ ra vai trò của các yếu tố ấy trong việc làm nổi bật nội dung của đoạn văn.

Trả lời:

Yếu tố nghị luận trong bài Lỗi lầm và sự biết ơn thể hiện ở:

– Câu trả lời của nhân vật được cứu: “Những điều viết trên cát sẽ mau chóng xóa nhòa …”

– Câu kết: “Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá”.

Những yếu tố này đã làm cho câu chuyện thêm sâu sắc.

II .Thực hành viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận

Câu 1 – Thực hành viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận (Trang 161 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Viết một đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp. Trong buổi sinh hoạt đó, em đã phát biểu ý kiến để chứng minh Nam là một  người bạn rất tốt.

Trả lời:

Thứ bảy tuần trước, Lan bị mất chiếc máy mp3, Lan vội vàng nghi Nam lấy cắp nó. Lan nói rằng Nam ngồi gần và trong giờ ra chơi chỉ có Nam trong lớp nên mới có cơ hội lấy cắp nhưng tôi biết Lan nghi Nam lấy chỉ vì gia đình Nam rất khó khăn, bần cùng. Đến tiết Sinh hoạt lớp, Lan lại còn nói với cô Hoài – GVCN lớp tôi. Các bạn trong lớp đều tin rằng điều Lan nói là có cơ sở. Mọi người bàn tán xôn xao. Nam có giải thích nhưng không ai nghe. Tôi bức xúc, thấy ức, thấy giận thay Nam. Tôi biết Nam không bao giờ làm điều đó. Tôi đứng dậy, nói : “Các bạn không chịu nghe Nam nói, không có bằng chứng thì đừng vội đổ tội cho người khác. Nam là người nhút nhát, khép kín chỉ vì các bạn không chịu mở lòng, luôn coi thường Nam vì gia đình bạn ý nghèo, khó khăn, mẹ là lao công, bố là công nhân sao? Lan nghi Nam lấy cắp mp3 à? Thế bạn không nhớ sáng hôm qua đã cho Huy lớp bên mượn à?” Lan bàng hoàng nhớ lại, vẻ mặt ngượng ngùng, cúi mặt không nói một lời. Tôi nói tiếp “Các bạn có biết Nam vẫn thường xuyên giúp đỡ nhưng em bé đường phố học chữ không? Việc nhà, việc học, lại còn việc dạy chữ nữa, ấy thế mà Nam năm nào cũng là học sinh khá. Đó không phải tấm gương hay sao? Chỉ nhìn bề ngoài, hoàn cảnh mà vội đánh giá người khác thì có quá đáng không? Để nhận xét một người, các bạn không nên chỉ nhìn vẻ bề ngoài. Đó chính là điều tôi và các bạn cần học đấy!” Tôi ngồi xống, im lặng. Buổi sinh hoạt trôi qua nặng nề nhưng tôi biết, cả lớp đều đang suy ngẫm.

Câu 2 – Thực hành viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận (Trang 161 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Viết đoạn văn kể về những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu đã làm cho em cảm động (trong đoạn văn có sử dụng yếu tố nghị luận).

Có thể tham khảo văn bản sau đây:

BÀ NỘI

(Trích)

Tôi nẩng cao đầu mới thấy tuổi của bà; chứ cứ nhìn bà chặt củi, nhổ sắn, nhìn bà đứng, bà đi thì không ai biết bà đã gần bảy mươi. Bà làm nhanh, đi nhanh, lưng thẳng. Bà không hút thuốc lào như u tôi, không ăn giầu.

Bà như một chiếc bóng; lặng lẽ, đi không ai biết, về không ai hay. Bà tất bật, khi đi giồng sắn ở trại, khi đi bắt cua bán, lúc đi cấy thuê. Có lần bà bỏ nhà bốn năm ngày. Tôi hỏi Lĩnh, nó rớm nước mắt. Tuần phu đi rầm rập bắt thuế. Trống dồn sôi cả bụng, đập thình thịch vào cái ngực bé nhỏ của tôi.

Cả làng đã im ắng. Bà như chiếc bóng giở về. Ít khi tôi thấy bà nói chuyện nói trò với ai ngoài các cháu ra. Ít khi tôi thấy bà đôi co với ai. Dân làng bảo bà hiền như đất. Nói cho đúng, bà hiền như chiếc bóng. Nếu ai lành chanh lành chói, bà rủ rỉ khuyên. Bà nói nhiều bằng ca dao, tục ngữ. Những chị mồm năm miệng mười, sau khi bà khuyên chỉ còn mồm một, mồm hai.

Người ta bảo: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Bà như thế thì chúng tôi hư làm sao được. […]

Bà tôi có học hành gì đâu, một chữ cắn đôi không biết. Bà lặng lẽ, cứ tưởng bà không biết gì. Bà thuộc như cháo hàng trăm hàng nghìn câu ca. Bà nói những câu sao mà đúng thế. Bà bảo u tôi:

Dạy con từ thuở còn thơ

Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.

Người ta như cây. Uốn cây phải uốn từ non. Nếu để lớn mới uốn, nó gãy.

(Theo Duy Khán, Tuổi thơ im lặng, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 1996)

Trả lời:

“Đời người không thể không vấp ngã, con thất bại lần này nhưng lần sau có thể con sẽ thành công. Sự cách biệt giữa thất bại và thành công chỉ cách nhau bởi một con sông, giữa con sông có bắc một cây cầu,cây cầu đo mang tên là “sự cố gắng”,ai luôn luôn mang cây cầu ấy bên người dù có thất bại thì sau đó họ nhất định sẽ thành công”. Những lời dạy bảo này cứ quanh quẩn,khắc sâu vào tâm trí tôi. Hồi tôi còn bé, lúc cái năm tôi học lớp năm, khi cô giáo phát bài kiểm tra môn toán, thật tệ hại! bài kiểm tra của tôi chỉ đạt điểm 5, tôi buồn lắm và từ ngay giờ phút ấy cho đến hết buổi học tôi như một người mất hồn, cứ thơ thẩn mãi. Về đến nhà, người đầu tiên tôi nhìn thấy là người bà kính yêu của tôi. Tôi đã kể lại cho bà nghe về chuyện bài kiểm tra bị điểm 5, bà thấy tôi buồn rồi bà nhẹ nhàng xoa đầu tôi bảo: “con hãy đứng lên ngay chỗ mà con vấp ngã và hãy vững vàng bước tiếp vì tương lai tươi sáng đang dang tay rộng mở chờ con đấy”, và rồi bà nói cái câu mà tôi phải khắc sâu trong lòng ấy. Sau khi nghe bà dịu dàng dạy bảo tôi bắt đầu phấn chấn trở lại. Những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc ấy tôi chẳng thể nào quên được và đến bây giờ khi bà đã mất, tôi vẫn nhớ và tự nhủ mình phải cố gắng.

Thực Hành Các bài văn có yếu tố nghị luận khác

Soạn bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận trang 160 SGK Văn 9. Câu 2. Viết đoạn văn kể lại những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu.

Phần 1

I. THỰC HÀNH TÌM HlỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG ĐOẠN VĂN TỰ SỰ

Trả lời câu 2 (trang 160 SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)

Trong đoạn văn trên, yếu tố nghị luận thể hiện trong những câu nào? Chỉ ra vai trò của các yếu tố ấy trong việc làm nổi bật nội dung của đoạn văn.

Trả lời:

- Câu chuyện kể về hai người bạn cùng đi trên sa mạc.

- Yếu tố nghị luận chủ yếu được thể hiện:

+ "Những điều viết trên cát sẽ mau chóng xóa nhòa ..."

+ Câu kết: "Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá".

- Yếu tố nghị luận này làm cho câu chuyện thêm sâu sắc, giàu tính triết lí và có ý nghĩa giáo dục cao. Bài học rút ra từ câu chuyện này có thể nêu bằng nhiều cách khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là bài học về bao dung, lòng nhân ái, biết tha thứ và ghi nhớ ân nghĩa, ân tình...

 

Câu 1

Trả lời câu 1 (trang 161 SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)

Viết đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp. Trong buổi sinh hoạt lớp, em đã phát biểu ý kiến chứng minh Nam là người bạn rất tốt.

Lời giải chi tiết:

Gợi ý:

a) Buổi sinh hoạt lớp diễn ra như thế nào? (thời gian, địa điểm, ai là người điều khiển, không khí của buổi sinh hoạt lớp ra sao,...).

b) Nội dung của buổi sinh hoạt la gì? Em đã phát biểu về vấn đề gì? Tại sao lại phát biểu về việc đó?

c) Em đã thuyết phục cả lớp rằng Nam là người bạn rất tốt như thế nào? (lý lẽ, ví dụ, lời phân tích).

Bài mẫu:

       Em vẫn nhớ như ngày hôm qua, về buổi sinh hoạt vào thứ 6 cách đây ba tuần trước. Không khí trong lớp hôm đấy thật nặng nề. Nguyên nhân là do hai bạn Nam và Vũ có xảy ra cãi vã vì hôm đó bạn Vũ có đem theo tiền đóng học để đợi cuối giờ nộp cho cô, Vũ đã nói việc này cho Nam biết. Sau giờ thể dục Vũ vào lớp phát hiện số tiền đã bị mất. Vũ đã đổ tội cho Nam. Nam thanh minh không được nên xảy ra cãi vã. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Nam. Cô giáo hỏi cả hai bạn. Em đã đứng dậy nói với cô Nam là một người tốt. Nam thường xuyên tiết kiệm tiền để ủng hộ các gia đình khó khăn trong thôn. Không chỉ vậy Nam còn thường xuyên cho các em học sinh lớp dưới có hoàn cảnh thiếu thốn sách vở. Do vậy, em gợi ý cô giáo bảo bạn Vũ kiểm tra một lần nữa thật kĩ càng. Cuối cùng sau một hồi tìm lại kĩ càng trong cặp sách Vũ đã phát hiện ra tập tiền kẹp trong một cuốn sách. Vũ vội vàng xin lỗi Nam. Nam nhìn em với ánh mắt đầy sự biết ơn.

 

Câu 2

Trả lời câu 2 (trang 161 SGK Ngữ Văn 9 Tập 1)

Viết đoạn văn kể lại những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu. 

Lời giải chi tiết:

Gợi ý:

a) Người em kể là ai?

b) Người đó đã để lại một việc làm, lời nói hay một suy nghĩ? Điều đó diễn ra trong hoàn cảnh nào?

c) Nội dung cụ thể là gì? Nội dung đó giản dị mà sâu sắc, cảm động như thế nào?

d) Suy nghĩ về bài học rút ra từ câu chuyện trên.

Bài mẫu:

Bà em đã già đi năm nay, đôi mắt bà đã mờ đi và đôi chân yếu ớt hơn rất nhiều. Với em, bà là người thầy lớn, dạy em những điều hay lẽ phải trong cuộc đời. Mỗi khi trở về quê hương, em rất hạnh phúc khi được nắm lấy bàn tay hao gầy nhưng tràn đầy hơi ấm của bà, và lắng nghe những câu chuyện bà kể.

Từ thuở bé, em luôn thích được trở về khu vườn của bà, nơi đầy ắp những trái cây ngon lành. Bà không bao giờ bán những trái cây đó mà thường để dành khi chín, sau đó chia cho những đứa trẻ quanh nhà. Em từng thắc mắc tại sao bà không bán để kiếm tiền, và bà cười hiền hậu và nói: "Những đứa trẻ đó nhà chúng nghèo lắm con ạ, nhà nghèo nên chúng chẳng được ăn những trái cây ngon bao giờ. Chia sẻ với người khác là nhận thêm niềm vui cho mình."

Bà không chỉ dạy em về việc chia sẻ, mà còn dạy chữ cho những đứa trẻ nghèo ven đê không có cơ hội đến trường. Ngôi nhà nhỏ của bà vì vậy lúc nào cũng rộn tiếng cười nói trẻ thơ.

Vào những đêm trăng sáng, bà thường kể em nghe những câu chuyện cổ tích, như về sự tham lam của người anh trong truyện Cây khế đã phải giá bằng tính mạng của mình, hay về lão phú ông trong truyện cổ tích Cây tre trăm đốt chỉ biết làm giàu cho mình từ sức lao động của anh Khoai nên cuối cùng mới bị anh Khoai trả đũa.

Bài học từ thuở bé mãi là hành trang theo em bước vào đời, em luôn ghi nhớ lời dạy sâu sắc bà dạy để đối xử với mọi người quanh mình, để nhận lại được những nụ cười và hạnh phúc đầy ấm áp. Người với người sống để yêu nhau, bởi “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.