Các tác giả tác phẩm văn học lớp 9 năm 2024
- Việc Vũ Nương chọn cho mình cái chết là một cách bảo vệ con trước định kiến của xã hội, không để con phải chịu đựng những lời gièm pha, xấu xí về mẹ nó. Chết chính là tự minh oan, đối với nàng, chết đi thì nỗi oan mới được rửa sạch *) Người vợ thủy chung yêu chồng đằm thắm - Khi mới về nhà chồng, biết tính chồng hay ghen nên Vũ Nương "luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để vợ chồng đến thất hòa" - Tuy rằng nành được Trương Sinh "đem 100 lạng vàng để xin cưới", ban đầu quả thực chưa có tình cảm. Nhưng nàng luôn cố gắng yêu thương chồng, dần dần có tình cảm và một mực thủy chung - Điều đó càng được thể hiện rõ khi Vũ Nương tiễn chồng ra trận. Buổi tiễn đưa, nàng nói những lời đằm thắm, tình nghĩa. Ngay từ lời nói của nàng, ta nhận thấy rằng, nàng không phải kẻ ham hư vinh, vật chất. Bởi, Vũ Nương nói rằng nàng chỉ mong Trương Sinh bình an trở về, đó là niềm hạnh phúc lớn nhất, nàng không mong chồng phải liều mạng lập công. Vì những lời nói thật lòng đó của Vũ Nương mà " mọi người đều tựa hai hàng lệ" - Khi xa chồng, Vũ Nương luôn giữ trọn đạo làm vợ, nàng nhớ chồng da diết "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được", giữ trọn tình yêu với chồng, may áo rét gửi người ải xa... - Khi chồng đi lính trở về, dẫu bị nghi oan là thất tiết, song nàng không hề đưa ra một lời kêu than, trách móc chồng mà chỉ dùng những lời lẽ dịu dàng để khuyên lơn, mong giữ được gia đình đầm ấm *) Người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa - Khi bị chồng nghi oan, nàng hết sức phân trần mong chồng nghĩ lại - Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn luôn thương nhớ gia đình, chồng con, phần mộ tổ tiên nhưng vì giữ lời hứa với Linh Phi nên nàng quyết định không quay về dương gian. - Nàng đã phải gánh chịu nỗi oan lạ lùng để phải tự vẫn, chứng minh sự trong sạch. Bởi vậy, khi chết đi, nàng luôn mong được chồng lập đàn giải oan cho mình. - Sau khi biết được mình đã trách oan vợ, Trương Sinh đã rất ân hận, ngay khi biết được mình có thể gặp lại vợ, chàng liền làm theo lời. Cuối cùng Vũ Nương cũng được gặp lại chồng con nhưng chỉ trong thoáng chốc. 2. Nỗi bất hạnh của Vũ Nương - Cuộc sống gia đình nghèo, sau khi lấy chồng, những tưởng được sống ấm no, hạnh phúc nhưng chiến tranh đến, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương sống ở gia đình chồng những tháng ngày cô đơn, vất vả. - Phải gánh chịu nỗi oan lạ lùng dẫn tới tự vẫn - Nguyên nhân của cái chết: + Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản "Ô, ông cũng là cha tôi ư?" làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông sẵn có của Trương Sinh + Gián tiếp:
- Sau khi tự vẫn, Vũ Nương phải sống không thực sự hạnh phúc dưới thủy cung
- Cuối truyện là chi tiết: sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang, Vũ Nương đã hiện về trên chiếc kiệu hoa, theo sau là cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông lúc ẩn, lúc hiện. Sự xuất hiện trong chốc lát ấy của Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng đã được rửa oan cho nàng, nó chứng minh nàng vô tội - Đây là một kết thúc phần nào có hậu bởi nó thể hiện ước mơ về sự công bằng của nhân dân ta: người tốt có bị oan khuất thì cuối cùng rồi cũng được minh oan và hưởng cuộc sống sung sướng với chân lý "ở hiền gặp lành" giống trong các câu chuyện cổ tích - Một lần nữa ta thấy được vẻ đẹp trong con người Vũ Nương: tuy rằng sống một cuộc sống xa hoa dưới thủy cung nhưng vẫn luôn nặng tình, nặng nghĩa với quê hương, gia đình và có tấm lòng bao dung, độ lượng - Tuy nhiên, cách kết thúc ấy cũng không làm mất đi tính bi kịch của truyện, Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng, nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả. Vũ Nương khát khao một cuộc sống sum họp nơi trần thế nhưng nào chẳng thể nào trở về nữa Trên đây là những kiến thức cơ bản của văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương". Các bạn hãy tham khảo nhé Tag các tình iu nà :3 @Roses_are_rosie , @_Nhược Hy Ái Linh_ , @Ánh 01 , @Aww Pomme , @Trần Hoàng Hạ Đan , @nhuukha , @[email protected] , @kaede-kun
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ HỒI THỨ 14 (Ngô Gia Văn Phái)
- Thể loại
- Ý nghĩa nhan đề
- Phương thức biểu đạt: tự sự có đan xen miêu tả, biểu cảm II. Tìm hiểu đoạn trích 1. Tóm tắt Được tin báo quân Thanh vào Thăng Long, Bắc Bình Vương rất giận liền họp các tướng sĩ rồi tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân hành cầm quân vừa đi vừa tuyển quân lính. 30 tháng chạp đến núi Tam Điệp vua mở tiệc khao quân. Mùng 7 năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng này chỉ huy thao lược của Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên như vũ bão, quân giặc thua chạy tán loạn, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp chạy thẳng về biên giới phía Bắc khiến tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân 2. Bố cục : 3 đoạn 3. Chủ đề : Ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn và vua Quang Trung. Đồng thời, tác phẩm miêu tả sự thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh cùng bọn bán nước. 4. Phân tích
- Nghe tin giặc đã chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn lại thủ Phong cho vua Lê Nguyễn Huệ không hề nao núng Mà định đích thân cầm quân đi ngay Nhưng vì đại cục, trước đó Quang Trung đã tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế để trấn an lòng dân, yên kẻ phản trắc - Chỉ trong vòng một tháng Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất lên, ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh, tuyển mộ quân lính, mở cuộc duyệt binh, ra lời phủ dụ, có kế hoạch hành quân đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng
- Trước tiên, Quang Trung thể hiện sự sáng suốt trong việc lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn cả là để "yên kẻ phản trắc" - Tiếp đó ông sáng suốt trong việc phân tích nhận định tình hình thời cuộc và thế tương quan giữa địch và ta. Sự nhận định ấy tự thể hiện rõ nhất trong lời phủ dụ ngắn gọn mà ý sâu xa *) Nội dung lời phủ dụ: + Khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, lên án, tố cáo hành động xâm lăng phi nghĩa và dã tâm cướp nước của quân Thanh + Nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc ta + Kêu gọi quân sĩ đồng tâm hiệp lực chống lại kẻ thù, bảo vệ đất nước + Đề ra kỷ luật nghiêm minh + Thông báo tình hình đất nước có giặc ngoại xâm ~~~~~~~~~ - Ông còn sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người, bình công và luận tội rõ ràng - Ông hiểu được chỗ mạnh điểm yếu của hai tướng Sở, Lân. Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm và còn định dùng tài ăn nói của Nhậm vào việc ngoại giao với nhà Thanh sau này để dẹp được việc binh đao
- Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào, vậy mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột "phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh". Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với Ngô Thì Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch của 10 năm tới
- Ông tổ chức một cuộc hành binh thần tốc, chưa đầy một tuần đã tiến từ Phú Xuân đến Tam Điệp, vừa đi vừa chiêu binh. Xuất phát ngày 30 Tết đến mùng 5 Tết đã giải phóng Thăng Long vừa hành quân vừa đánh giặc vừa thu hồi giang sơn, tổng chiến dịch chỉ trọng trong 10 ngày. Hành quân ra liên tục nhưng "cơ nào đội ấy" vẫn chỉnh tề - Vừa hành quân vừa phối hợp với các cánh quân tổ chức trận đánh một cách kỳ tài, chiến thắng vượt 2 ngày - Với quân lính ông khuyên răn, mở tiệc khao quân tạo khí thế; với tướng ông hiểu chỗ mạnh, điểm yếu - Ông quyết đoán nhưng không độc đoán, nghe lời góp ý của quần thần, hỏi ý kiến của hiền sĩ trong thiên hạ. Nhà vua thấy rõ ưu điểm và nhược điểm của tướng sĩ dưới quyền để sử dụng một cách phù hợp, thưởng, phạt nghiêm minh.
- Ông không chỉ là tổng chỉ huy trên danh nghĩa mà còn là người trực tiếp xông pha nơi chiến trận, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công - Ông lẫm liệt bước ra khỏi chiến trận với khuôn mặt và tấm áo hoàng bào sạm đen vì khói súng. Hình ảnh vua Quang Trung lẫm liệt cưỡi voi thúc độc quân sĩ với tấm áo bào màu đỏ đã khắc họa hình tượng người anh hùng mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, tài điều binh khiển tướng, là người tổ chức và là linh hồn của cuộc chiến.
- Tướng: + Lúc quân Tây Sơn chưa đánh thì kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn, chủ quan cho rằng có thể dễ dàng chiến thắng + Lúc quân Tây Sơn đánh đến thì sợ mất mật, "ngựa không kịp đóng yên", "người không kịp mặc áo giáp", chuồn trước qua cầu phao - Quân: + Mặc sức vui chơi khi quân Tây Sơn chưa đến + Đến lúc lâm trận ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chạy đến nỗi "nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa"
- Lê Chiêu Thống cùng bề tôi trung thành của ông đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà mù quáng đem vận mệnh của dân tộc đặt vào tay kẻ xâm lược - Khi bị đánh đến chỉ biết chạy bán sống bán chết luôn mấy ngày không ăn không nghỉ, cướp cả thuyền của dân để qua sông. Khi sang Trung Quốc phải tạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và khi chết phải gửi gắm xương tàn nơi đất khách quê người - Họ không còn tư cách của quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của kẻ cầu cạnh và kẻ vong quốc
TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)
+ Chữ Nôm: tiêu biểu nhất là "Truyện Kiều", ngoài ra còn có "Văn chiêu hồn" [tex]\Rightarrow[/tex] Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, ông đã có đóng góp lớn đối với sự nghiệp phát triển của nền văn học trung đại Việt Nam.
CHỊ EM THÚY KIỀU ~ Nguyễn Du ~
2. Bố cục: chia làm 4 phần - Phần 1: bốn câu đầu [tex]\rightarrow[/tex] giới thiệu chung về chị em Thúy Kiều - Phần 2: bốn câu tiếp[tex]\rightarrow[/tex] Vẻ đẹp của Thúy Vân - Phần 3: 12 câu tiếp [tex]\rightarrow[/tex] Vẻ đẹp của Thúy Kiều - Phần 4: còn lại [tex]\rightarrow[/tex] nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em 3. Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo, mặn mà, So bề tài, sắc, lại là phần hơn. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân. Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. II. Phân tích 1. Giới thiệu khái quát vẻ đẹp của hai chị em - Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du không vội vàng miêu tả vẻ đẹp riêng của hai chị em mà giới thiệu khái quát vẻ đẹp của họ. + Cả hai là con gái của viên ngoại họ Vương, đều là thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp. Xét về vị trí: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em + Đồng thời, họ còn có vẻ đẹp tâm hồn thanh cao, trong sáng "Mai cốt cách tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười". "Mai cốt cách" - dáng người thanh cao, mảnh dẻ như cây mai. "Tuyết tinh thần" - phong thái và tâm hồn trắng trong như tuyết - Lời bình khép lại bốn dòng thơ đầu "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười" cho thấy nét riêng của hai nhân vật vừa tô đậm vẻ đẹp chung toàn diện [tex]\Rightarrow[/tex] Bốn câu thơ vô cùng ngắn gọn, song với bút pháp tả người của Nguyễn Du thật tài tình, đó là bút pháp ước lệ tượng trưng thường thấy trong thơ cổ. Nhà thơ đã lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm khuôn mẫu để tả vẻ đẹp con người vừa làm nổi bật cái chung lại không làm mất đi nét riêng. Qua đó, ta thấy được cảm hứng ngợi ca tài năng, nhan sắc của con người đang tràn trề trong từng câu chữ 2. Vẻ đẹp của Thúy Vân - Đến với bốn câu thơ tiếp theo, vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã để Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp đoan trang, quý phái |