Ngành dịch vụ công cộng gồm những gì

[Last Updated On: 21/10/2021 By Lytuong.net]

Dịch vụ công [từ tiếng Anh là “public service”] có quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tỉnh cơ bản như:

+ Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó;

+ Việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác, và;

+ Không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn tồn tại.

Nói một cách giản đơn, thì những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần tủy, và những hàng hóa nào không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy.

Từ góc độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm.

Ở Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của nhà nước, mà không bao gồm các chức năng công quyền, như lập pháp, hành pháp, tư pháp, ngoại giao,… qua đó nhấn mạnh vai trò chủ thể của nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng. Điều quan trọng là chúng ta phải sớm tách hoạt động dịch vụ công [lâu nay gọi là hoạt động sự nghiệp] ra khỏi hoạt động hành chính công quyền như chủ trương của Chính phủ đã đề ra nhằm xóa bỏ cơ chế bao cấp, giảm tài cho bộ máy nhà nước, khai thác mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, và nâng cao chất lượng của dịch vụ công phục vụ người dân. Điều 22 của Luật Tổ chức chính phủ [2001] quy định: “Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực,”. Điều này không có nghĩa là nhà nước độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà trái lại nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung ứng một phần của một số dịch vụ, như ý tế, giáo dục, cấp thoát nước,…. cho khu vực phi nhà nước thực hiện.

Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội. Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thi Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.

Từ những tính chất trên đây, “dịch vụ công” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hóa, dịch vụ mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vấn cả của Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, tòa án… cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng

Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hóa, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.

2. Đặc trưng cơ bản của dịch vụ công

– Thứ nhất, đó là những hoạt động phục vụ cho lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân;

– Thứ hai, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội [trực tiếp cung ứng hoặc ủy nhiệm việc cung ứng]. Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao dịch vụ này cho tư nhân cung ứng thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này, khắc phục các điểm khuyền khuyết của thị trường;

– Thứ ba, là các hoạt động có tính chất phục vụ trực tiếp, đáp ứng nhu cầu, quyền lợi hay nghĩa vụ cụ thể và trực tiếp của các tổ chức và công dân;

– Thứ tư, mục tiêu nhằm bảo đảm tính công bằng và tính hiệu quả trong cung ứng dịch vụ.

3. Các loại dịch vụ công

Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tiêu chỉ chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành 3 loại, như sau:

Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch vụ công cộng cơ bản do các cơ quan của nhà nước cung cấp. Thí dụ, an ninh, giáo dục, phổ thông, chăm sóc y tế công cộng, bảo trợ xã hội…..

Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp, gồm những dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp thực hiện mà ủy nhiệm cho tổ chức phi chính phủ và tư nhân thực hiện, dưới sự đôn đốc, giám sát của nhà nước. Thí dụ các công trình công cộng do chính phủ gọi thầu có thể do các công ty tư nhân đấu thầu xây dựng.

Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân phối hợp thực hiện. Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nước.

Như ở Trung Quốc, việc thiết lập hệ thống bảo vệ trật tự phối hợp thực hiện. Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công thành các loại sau:

– Dịch vụ hành chính công:

Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân, Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà nước thành lập được ủy quyền thực hiện cung ứng dịch vụ hay dịch vụ công. Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước, Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,…[ở một số nước, dịch vụ hành chính công được coi là một loại hoạt động riêng, không nằm trong phạm vi dịch vụ công, ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng có quan điểm như vậy]. Người dân được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trưởng, mà thông qua việc đóng lệ phi cho cơ quan hành chính nhà nước. Phần lệ phí này mang tính chất hỗ trợ cho ngân sách nhà nước.

– Dịch vụ sự nghiệp công:

Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội… Xu hướng chung hiện nay trên thế giới là nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm nên nhà nước đã chuyển giao một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội.

– Dịch vụ công ích:

Là các hoạt động cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch, vận tài công cộng đồ thị, phòng chống thiên tại… chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân dùng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác thái ở một số đô thị nhỏ, cung ủng nước sạch ở một số vùng nông thôn…

Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hoặc hàng hoá dịch vụ hàng ngày không thể thiếu đối với đời sống của con người, có thể hoạt động kinh tế và hiệu quả kinh tế do có tính chất độc quyền do những đặc điểm tự nhiên và kỹ thuật độc đáo của nó. Nói. Các tiện ích công cộng không phù hợp với lợi ích công cộng khi tác hại của độc quyền của chúng xuất hiện đáng kể, do đó nếu là công ty tư nhân thì nó bị điều chỉnh, hoặc đơn vị quản lý chuyển sang hình thức công ty đại chúng.

Tùy thuộc vào loại hình dịch vụ được cung cấp, các tiện ích công cộng bao gồm [1] dịch vụ giao thông như đường sắt, giao thông đô thị, xe buýt, tàu thường và hàng không thông thường, [2] dịch vụ thông tin liên lạc như thư tín, viễn thông, điện thoại và phát thanh truyền hình, và [ 3]. Nó đại khái được chia thành kinh doanh cung cấp hàng hóa dịch vụ cơ bản như điện, khí đốt và nước. Các đặc điểm chung của các tiện ích này như sau. [1] Chúng tôi cung cấp các dịch vụ và hàng hóa dịch vụ không thể thiếu cho cuộc sống hàng ngày của công chúng. [2] Vì nó không thể được lưu trữ hoặc bán lại, rất khó điều chỉnh cung và cầu, và nó đòi hỏi phải có tài sản độc quyền. [3] Nhu cầu rất lớn về tính ổn định và tích hợp một cách tự nhiên, kỹ thuật và kinh tế trong các cơ sở sản xuất và tiêu dùng và các cơ sở cung ứng. [4] Vốn cố định phải bỏ ra rất lớn, vốn luân chuyển chậm, thời gian thu hồi lâu. [5] Người tiêu dùng và người sử dụng khó đáp ứng bằng các phương tiện kinh tế thay thế [tự cung tự cấp, nhập khẩu, v.v.]. [6] Đây là một dịch vụ cơ bản hoặc dịch vụ tốt cho các ngành công nghiệp khác. Dựa trên những đặc điểm này, các mục tiêu quy định để đảm bảo tiện ích của một tiện ích là: [1] Giá cả hợp lý và công bằng [nói chung, giá của một dịch vụ của một tiện ích được gọi là phí, và giá vận chuyển được gọi là giá vé], [2]] Dịch vụ phù hợp, [3] Ổn định tài chính. Cụ thể, nội dung của quy chế là công bố nội dung quản lý, quy chế thành lập / mở rộng kinh doanh, nghĩa vụ cung cấp / tiếp tục dịch vụ, tuân thủ tính công bằng của dịch vụ, thể hiện hợp pháp nguyên tắc ấn định giá hoặc hệ thống cho phép thay đổi giá. Và như thế.

So với các công ty tư nhân thông thường, các tiện ích không chỉ chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư mà còn với người dân là người tiêu dùng dịch vụ. Do đó, về mặt kế toán, có các quy tắc kế toán doanh nghiệp công ích bên cạnh các nguyên tắc kế toán doanh nghiệp tư nhân chung, đặc biệt là về tính công bằng của phí kinh doanh công ích và nội dung tài chính làm cơ sở định phí, và các công ty thuộc từng doanh nghiệp. . Mặt khác, nó được ban hành dưới hình thức các sắc lệnh cấp bộ của mỗi cơ quan quản lý và các quy tắc hoặc thông báo dựa trên chúng. Vì vậy, đặc điểm quan trọng nhất của kế toán công ích là nó không chỉ có chức năng quản lý và bảo toàn tài sản thuộc sở hữu, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, cung cấp thông tin tài chính mà còn có chức năng là tiêu chuẩn định phí. Là một công ty công ích, ngay cả khi một công ty tư nhân phải tuân theo các quy định khác nhau hoặc đơn vị quản lý của nó áp dụng một hệ thống công ích, công ích đó phải đảm bảo các đặc điểm sau đây của công ty cũng như lợi ích công cộng của nó. Vì nó là một tổ chức được tạo ra một cách có ý thức để đạt được một mục đích kinh tế cụ thể, điều quan trọng là các thành viên và công việc của nó phải được tổ chức có mục đích. Trong sự kết hợp của các yếu tố quản lý, đổi mới phải được thực hiện để nâng cao năng suất. Nó cũng cần thiết phải đóng góp cho nền kinh tế quốc dân bằng cách đảm bảo lợi nhuận như một nền kinh tế bộ phận trong nền kinh tế tổng thể, và đạt được hiệu quả tốt và cải thiện thu nhập của các thành viên.
→ Phí tiện ích
Toyoshi Ninomiya

Quy định về tranh chấp luật lao động

Theo Luật Lao động, ý tưởng về hoạt động công ích có thể được sử dụng để phân biệt với hoạt động kinh doanh nói chung. Các doanh nghiệp không thể thiếu đối với cuộc sống hàng ngày của công chúng được định nghĩa là các tiện ích công cộng [Điều 8 của Đạo luật Điều chỉnh Quan hệ Lao động], và các tranh chấp lao động và tranh chấp liên quan đến các tiện ích công cộng được quy định cụ thể. Các dịch vụ công ích được đề cập trong luật, cụ thể là kinh doanh vận tải, kinh doanh bưu chính / điện báo và điện thoại, kinh doanh cung cấp nước / điện / khí đốt, kinh doanh y tế / sức khỏe cộng đồng, là những lĩnh vực không thể thiếu đối với cuộc sống hàng ngày của công chúng. Nói. Đối với các dự án khác, Thủ tướng Chính phủ có thể chỉ định thêm thời hạn tối đa một năm [Điều 8]. Khi tranh chấp lao động [Điều 6] xảy ra trong công ích, Ủy ban Quan hệ Lao động có thể tiến hành hòa giải bắt buộc [Điều 18 Số 3-5]. Ngoài ra, khi tổ chức lao động công ích xảy ra tranh chấp [Điều 7], phải báo trước từ 10 ngày trở lên [Điều 37], gây trở ngại đáng kể cho hoạt động của nền kinh tế quốc dân hoặc làm suy giảm đời sống hàng ngày. của người dân. Một hệ thống phối hợp khẩn cấp đã được thiết lập đối với các tranh chấp thực sự gây ra rủi ro đáng kể [Điều 35-2 và 35-3] và các tranh chấp bị cấm trong 50 ngày [Điều 38].
Hiroshi Watanabe

Page 2

Isang negosyo na nagbibigay ng mga serbisyo o serbisyo sa kalakal na kailangang-kailangan sa buhay ng mga tao araw-araw, at na maaaring patakbuhin sa ekonomiya at ekonomiya sa pamamagitan ng pagkakaroon ng isang likas na katangian ng monopolyo dahil sa natatanging natural at teknikal na katangian. Sabihin mo Ang mga pampublikong kagamitan ay hindi naaayon sa interes ng publiko kapag ang mga mapanganib na epekto ng kanilang monopolyo ay lumitaw nang malaki, kaya kung ito ay isang pribadong kumpanya, kinokontrol ito, o ang entidad ng pamamahala ay dumating upang kumuha ng form ng isang pampublikong kumpanya.

Nakasalalay sa uri ng serbisyong ipinagkakaloob, ang mga kagamitan sa publiko ay may kasamang [1] mga serbisyo sa transportasyon tulad ng mga riles ng tren, transportasyon sa lunsod, mga bus, regular na barko, at regular na pagpapalipad, [2] mga serbisyong pangkomunikasyon tulad ng koreo, telecom, telepono, at pagsasahimpapaw, at [ 3]. Mahati itong nahahati sa negosyo ng panustos ng pangunahing mga kalakal sa serbisyo tulad ng elektrisidad, gas, at tubig. Ang mga katangiang karaniwang sa mga utilities na ito ay ang mga sumusunod. [1] Nagbibigay kami ng mga serbisyo at kalakal sa serbisyo na kinakailangan para sa pang-araw-araw na buhay ng pangkalahatang publiko. [2] Dahil hindi ito maiimbak o maibenta ulit, mahirap na ayusin ang supply at demand, at nangangailangan ito ng isang monopolyong pag-aari. [3] Mayroong isang malaking pangangailangan para sa pag-aayos at pagsasama nang natural, panteknikal, at matipid sa mga pasilidad sa paggawa at pagkonsumo at mga pasilidad sa panustos. [4] Ang isang malaking halaga ng nakapirming kapital ay kinakailangan, ang paglilipat ng puhunan ay mabagal, at ang pagbawi ay pangmatagalan. [5] Mahirap para sa mga mamimili at gumagamit na tumugon sa pamamagitan ng kahalili na pang-ekonomiyang pamamaraan [sariling kakayahan, pag-import, atbp.]. [6] Ito ay isang pangunahing serbisyo o serbisyo na mabuti para sa iba pang mga industriya. Batay sa mga katangiang ito, ang mga layunin sa pagkontrol para sa pagtiyak na ang paggamit ng isang utility ay: [1] Makatwiran at patas na mga rate [sa pangkalahatan, ang presyo ng isang serbisyo ng isang utility ay tinatawag na bayad, at ang transportasyon ay tinatawag na pamasahe], [2]] Wastong serbisyo, [3] Katatagan sa pananalapi. Partikular, ang mga nilalaman ng regulasyon ay pagsisiwalat ng nilalaman ng pamamahala, regulasyon ng pagtatatag / pagpapalawak ng negosyo, obligasyong magbigay / magpatuloy sa serbisyo, pagsunod sa pagiging patas ng serbisyo, ligal na pagpapakita ng prinsipyo ng setting ng presyo o sistema ng pahintulot para sa pagbabago ng presyo. At iba pa.

Kung ikukumpara sa mga ordinaryong pribadong kumpanya, ang mga utility ay responsable hindi lamang sa mga namumuhunan kundi pati na rin sa mga tao na consumer ng serbisyo. Samakatuwid, sa mga tuntunin ng accounting, may mga patakaran sa accounting sa negosyo ng interes sa publiko bilang karagdagan sa pangkalahatang mga prinsipyo ng accounting ng pribadong kumpanya, lalo na tungkol sa pagiging patas ng singil sa interes ng interes ng publiko at ang nilalamang pampinansyal na bumubuo sa batayan ng setting ng pagsingil, at mga kumpanya na kabilang sa bawat negosyo . Sa kabilang banda, ito ay naisabatas sa anyo ng mga ordenasyong pang-ministro ng bawat ahensya ng pagkontrol at mga patakaran o abiso batay sa mga ito. Samakatuwid, ang pinakamahalagang tampok ng accounting ng pampublikong utility ay hindi lamang ito may mga pag-andar ng pamamahala at pagpepreserba ng mga pagmamay-ari na pag-aari, paghusga sa pagganap ng negosyo, at pagbibigay ng impormasyong pampinansyal, ngunit gumaganap din bilang isang pamantayan para sa pagtatakda ng mga singil. Bilang isang public utility, kahit na ang isang pribadong kumpanya ay napapailalim sa iba't ibang mga regulasyon o ang entity ng pamamahala nito ay gumagamit ng isang sistema ng isang pampublikong utility, dapat na ma-secure ng public utility ang mga sumusunod na katangian ng corporate pati na rin ang interes ng publiko. Dahil ito ay isang samahan na sinasadyang nilikha upang makamit ang isang tiyak na hangarin sa ekonomiya, mahalaga na ang mga kasapi at trabaho nito ay sadyang organisado. Sa kumbinasyon ng mga elemento ng pamamahala, dapat na ibigay ang pagbabago upang mapabuti ang pagiging produktibo. Kinakailangan din na mag-ambag sa pambansang ekonomiya sa pamamagitan ng pagtiyak sa kakayahang kumita bilang isang bahagyang ekonomiya sa pangkalahatang ekonomiya, at upang makamit ang mahusay na pagganap at mapabuti ang kita ng mga kasapi nito.
→ Mga singil sa utility
Toyoshi Ninomiya

Regulasyon sa pagtatalo ng batas sa labor

Sa ilalim ng Batas sa Paggawa, ang ideya ng paggamit ng publiko ay maaaring magamit upang makilala ito mula sa pangkalahatang negosyo. Ang mga negosyong kailangang-kailangan sa pang-araw-araw na buhay ng publiko ay tinukoy bilang mga kagamitan sa publiko [Artikulo 8 ng Batas sa Pag-aayos ng Mga Manggagawa sa Paggawa], at ang mga alitan sa paggawa at pagtatalo na nauugnay sa mga pampublikong kagamitan ay partikular na kinokontrol. Ang mga pampublikong kagamitan na tinutukoy sa batas ay, partikular, negosyo sa transportasyon, negosyo sa koreo / telegrapo at telepono, negosyo sa tubig / elektrisidad / gas, negosyo sa medikal / publiko na pangkalusugan, na kailangang-kailangan sa pang-araw-araw na buhay ng publiko. Sabihin mo Para sa iba pang mga proyekto, ang Punong Ministro ay maaaring magdagdag ng isang panahon hanggang sa isang taon [Artikulo 8]. Kapag ang isang pagtatalo sa paggawa [Artikulo 6] ay naganap sa isang pampublikong gamit, ang Komisyon ng Mga Relasyong Pang-Labor ay maaaring magsagawa ng sapilitan na pamamagitan [Artikulo 18 Blg. 3-5] Bilang karagdagan, kapag ang isang unyon ng publikong manggagawa ay nakikipagtalo sa isang pagtatalo [Artikulo 7], obligadong mag-iwan ng isang panahon ng paunawa na 10 araw o higit pa [Artikulo 37], na makabuluhang pumipigil sa pagpapatakbo ng pambansang ekonomiya o nagpapahina sa pang-araw-araw na buhay ng mga tao. Ang isang sistema ng koordinasyon ng emerhensiya ay itinatag para sa mga pagtatalo na talagang nagdudulot ng isang malaking panganib [Mga Artikulo 35-2 at 35-3], at ipinagbabawal ang mga pagtatalo sa loob ng 50 araw [Artikulo 38].
Hiroshi Watanabe

Page 3

தினசரி அடிப்படையில் மக்களின் வாழ்க்கைக்கு இன்றியமையாத சேவைகள் அல்லது சேவை பொருட்களை வழங்கும் ஒரு வணிகம், அதன் தனித்துவமான இயற்கை மற்றும் தொழில்நுட்ப பண்புகள் காரணமாக ஏகபோக தன்மையைக் கொண்டிருப்பதன் மூலம் பொருளாதார ரீதியாகவும் பொருளாதார ரீதியாகவும் இயக்க முடியும். சொல். பொது பயன்பாடுகள் அவற்றின் ஏகபோகத்தின் தீங்கு விளைவிக்கும் விளைவுகள் கணிசமாகத் தோன்றும் போது பொது நலனுடன் பொருந்தாது, எனவே அது ஒரு தனியார் நிறுவனமாக இருந்தால், அது ஒழுங்குபடுத்தப்படுகிறது, அல்லது நிர்வாக நிறுவனம் ஒரு பொது நிறுவனத்தின் வடிவத்தை எடுக்க வந்துவிட்டது.

வழங்கப்பட்ட சேவையின் வகையைப் பொறுத்து, பொது பயன்பாடுகளில் [1] இரயில் பாதைகள், நகர்ப்புற போக்குவரத்து, பேருந்துகள், வழக்கமான கப்பல்கள் மற்றும் வழக்கமான விமானப் போக்குவரத்து போன்ற போக்குவரத்து சேவைகள், [2] அஞ்சல், தொலைத் தொடர்பு, தொலைபேசி மற்றும் ஒளிபரப்பு போன்ற தகவல் தொடர்பு சேவைகள் மற்றும் [ 3]. இது தோராயமாக மின்சாரம், எரிவாயு மற்றும் நீர் போன்ற அடிப்படை சேவை பொருட்களின் விநியோக வணிகமாக பிரிக்கப்பட்டுள்ளது. இந்த பயன்பாடுகளுக்கு பொதுவான பண்புகள் பின்வருமாறு. [1] பொது மக்களின் அன்றாட வாழ்க்கைக்கு இன்றியமையாத சேவைகள் மற்றும் சேவை பொருட்களை நாங்கள் வழங்குகிறோம். [2] இதை சேமிக்கவோ மறுவிற்பனை செய்யவோ முடியாது என்பதால், வழங்கல் மற்றும் தேவையை சரிசெய்வது கடினம், அதற்கு ஏகபோக சொத்து தேவைப்படுகிறது. [3] உற்பத்தி மற்றும் நுகர்வு வசதிகள் மற்றும் விநியோக வசதிகளில் இயற்கையாகவும், தொழில்நுட்ப ரீதியாகவும், பொருளாதார ரீதியாகவும் நிலையான மற்றும் ஒருங்கிணைப்புக்கு பெரும் தேவை உள்ளது. [4] நிலையான மூலதனத்தின் பெரும் தொகை தேவைப்படுகிறது, மூலதனத்தின் வருவாய் மெதுவாக உள்ளது, மற்றும் மீட்பு நீண்ட காலமாகும். [5] மாற்று பொருளாதார வழிமுறைகள் [தன்னிறைவு, இறக்குமதி போன்றவை] மூலம் நுகர்வோர் மற்றும் பயனர்கள் பதிலளிப்பது கடினம். [6] இது ஒரு அடிப்படை சேவை அல்லது பிற தொழில்களுக்கு நல்லது. இந்த பண்புகளின் அடிப்படையில், ஒரு பயன்பாட்டின் பயன்பாட்டை உறுதி செய்வதற்கான ஒழுங்குமுறை குறிக்கோள்கள்: [1] நியாயமான மற்றும் நியாயமான விகிதங்கள் [பொதுவாக, ஒரு பயன்பாட்டின் சேவையின் விலை கட்டணம் என்றும், போக்குவரத்து கட்டணம் என்றும் அழைக்கப்படுகிறது], [2]] சரியான சேவை, [3] நிதி ஸ்திரத்தன்மை. குறிப்பாக, ஒழுங்குமுறையின் உள்ளடக்கங்கள் மேலாண்மை உள்ளடக்கத்தை வெளிப்படுத்துதல், வணிகத்தை நிறுவுதல் / விரிவாக்கம் செய்தல், சேவையை வழங்க / தொடர வேண்டிய கடமை, சேவையின் நியாயத்துடன் இணங்குதல், விலை நிர்ணயக் கொள்கையின் சட்டபூர்வமான காட்சி அல்லது விலை மாற்றத்திற்கான அனுமதி அமைப்பு ஆகியவை ஆகும். மற்றும் பல.

சாதாரண தனியார் நிறுவனங்களுடன் ஒப்பிடும்போது, பயன்பாடுகள் முதலீட்டாளர்களுக்கு மட்டுமல்ல, சேவையின் நுகர்வோராகவும் இருக்கும். ஆகையால், கணக்கியலைப் பொறுத்தவரை, பொது தனியார் கார்ப்பரேட் கணக்கியல் கொள்கைகளுக்கு மேலதிகமாக பொது நலன் சார்ந்த வணிக கணக்கியல் விதிகள் உள்ளன, குறிப்பாக பொது நலன் சார்ந்த வணிகக் கட்டணங்கள் மற்றும் கட்டண அமைப்பின் அடிப்படையை உருவாக்கும் நிதி உள்ளடக்கம் மற்றும் ஒவ்வொரு வணிகத்திற்கும் சொந்தமான நிறுவனங்கள் . மறுபுறம், இது ஒவ்வொரு ஒழுங்குமுறை நிறுவனத்தின் மந்திரி கட்டளைகள் மற்றும் அவற்றின் அடிப்படையில் விதிகள் அல்லது அறிவிப்புகள் வடிவில் இயற்றப்படுகிறது. எனவே, பொது பயன்பாட்டு கணக்கியலின் மிக முக்கியமான அம்சம் என்னவென்றால், சொந்தமான சொத்துக்களை நிர்வகித்தல் மற்றும் பாதுகாத்தல், வணிக செயல்திறனை தீர்மானித்தல் மற்றும் நிதி தகவல்களை வழங்குதல் போன்ற செயல்பாடுகளை இது கொண்டுள்ளது, ஆனால் கட்டணங்களை நிர்ணயிப்பதற்கான ஒரு தரமாகவும் செயல்படுகிறது. ஒரு பொது பயன்பாடாக, ஒரு தனியார் நிறுவனம் பல்வேறு விதிமுறைகளுக்கு உட்பட்டிருந்தாலும் அல்லது அதன் நிர்வாக நிறுவனம் ஒரு பொது பயன்பாட்டின் முறையை ஏற்றுக்கொண்டாலும், பொது பயன்பாடு பின்வரும் பெருநிறுவன பண்புகளையும் அதன் பொது நலனையும் பாதுகாக்க வேண்டும். இது ஒரு குறிப்பிட்ட பொருளாதார நோக்கத்தை அடைய வேண்டுமென்றே உருவாக்கப்பட்ட ஒரு அமைப்பு என்பதால், அதன் உறுப்பினர்களும் பணிகளும் நோக்கத்துடன் ஒழுங்கமைக்கப்படுவது முக்கியம். மேலாண்மை கூறுகளின் இணைப்பில், உற்பத்தித்திறனை மேம்படுத்த புதுமை பயன்படுத்தப்பட வேண்டும். ஒட்டுமொத்த பொருளாதாரத்தில் ஒரு பகுதி பொருளாதாரமாக லாபத்தை உறுதி செய்வதன் மூலம் தேசிய பொருளாதாரத்திற்கு பங்களிப்பதும், நல்ல செயல்திறனை அடைவதும் அதன் உறுப்பினர்களின் வருமானத்தை மேம்படுத்துவதும் அவசியம்.
→ பயன்பாட்டு கட்டணங்கள்
டொயோஷி நினோமியா

தொழிலாளர் சட்ட தகராறு கட்டுப்பாடு

தொழிலாளர் சட்டத்தின் கீழ், பொது பயன்பாட்டின் யோசனை பொது வணிகத்திலிருந்து வேறுபடுவதற்கு பயன்படுத்தப்படலாம். பொதுமக்களின் அன்றாட வாழ்க்கைக்கு இன்றியமையாத வணிகங்கள் பொது பயன்பாடுகள் [தொழிலாளர் உறவுகள் சரிசெய்தல் சட்டத்தின் பிரிவு 8] என வரையறுக்கப்படுகின்றன, மேலும் தொழிலாளர் தகராறுகள் மற்றும் பொது பயன்பாடுகள் தொடர்பான மோதல்கள் குறிப்பாக கட்டுப்படுத்தப்படுகின்றன. சட்டத்தில் குறிப்பிடப்பட்டுள்ள பொது பயன்பாடுகள், குறிப்பாக, போக்குவரத்து வணிகம், அஞ்சல் / தந்தி மற்றும் தொலைபேசி வணிகம், நீர் / மின்சாரம் / எரிவாயு விநியோக வணிகம், மருத்துவ / பொது சுகாதார வணிகம், இவை பொதுமக்களின் அன்றாட வாழ்க்கைக்கு இன்றியமையாதவை. சொல். மற்ற திட்டங்களுக்கு, பிரதமர் கூடுதலாக ஒரு வருடம் வரையிலான காலத்தை நியமிக்கலாம் [கட்டுரை 8]. ஒரு பொது பயன்பாட்டில் தொழிலாளர் தகராறு [பிரிவு 6] நிகழும்போது, தொழிலாளர் உறவுகள் ஆணையம் கட்டாய மத்தியஸ்தத்தை மேற்கொள்ளலாம் [கட்டுரை 18 எண் 3-5]. கூடுதலாக, ஒரு பொது பயன்பாட்டு தொழிலாளர் சங்கம் ஒரு சர்ச்சையில் ஈடுபடும்போது [கட்டுரை 7], இது 10 நாட்கள் அல்லது அதற்கு மேற்பட்ட அறிவிப்பு காலத்தை விட்டு வெளியேற வேண்டிய கட்டாயத்தில் உள்ளது [கட்டுரை 37], இது தேசிய பொருளாதாரத்தின் செயல்பாட்டை கணிசமாக தடை செய்கிறது அல்லது அன்றாட வாழ்க்கையை பாதிக்கிறது மக்கள். உண்மையில் ஒரு குறிப்பிடத்தக்க ஆபத்தை ஏற்படுத்தும் [கட்டுரைகள் 35-2 மற்றும் 35-3] சர்ச்சைகளுக்கு அவசர ஒருங்கிணைப்பு அமைப்பு நிறுவப்பட்டுள்ளது, மேலும் சர்ச்சைகள் 50 நாட்களுக்கு தடைசெய்யப்பட்டுள்ளன [கட்டுரை 38].
ஹிரோஷி வதனபே

Page 4

شركة تقدم خدمات أو سلع خدمية لا غنى عنها لحياة الناس بشكل يومي ، ويمكن تشغيلها اقتصاديًا واقتصاديًا من خلال طبيعة احتكارية نظرًا لخصائصها الطبيعية والتقنية الفريدة. يقول. تتعارض المرافق العامة مع المصلحة العامة عندما تظهر الآثار الضارة لاحتكارها بشكل كبير ، لذلك إذا كانت شركة خاصة ، فهي منظمة ، أو أصبح الكيان الإداري يتخذ شكل شركة عامة.

اعتمادًا على نوع الخدمة المقدمة ، تشمل المرافق العامة [1] خدمات النقل مثل السكك الحديدية والنقل الحضري والحافلات والسفن العادية والطيران العادي ، [2] خدمات الاتصالات مثل البريد والاتصالات والهاتف والبث ، و [ 3]. وهي مقسمة تقريبًا إلى أعمال توريد سلع الخدمات الأساسية مثل الكهرباء والغاز والمياه. الخصائص المشتركة لهذه المرافق هي كما يلي. [1] نحن نقدم الخدمات والسلع الخدمية التي لا غنى عنها للحياة اليومية لعامة الناس. [2] نظرًا لأنه لا يمكن تخزينها أو إعادة بيعها ، فمن الصعب ضبط العرض والطلب ، وتتطلب خاصية احتكار. [3] هناك حاجة كبيرة للثبات والتكامل بشكل طبيعي وفني واقتصادي في مرافق الإنتاج والاستهلاك ومنشآت التوريد. [4] مطلوب مبلغ ضخم من رأس المال الثابت ، ودوران رأس المال بطيء ، والانتعاش طويل الأجل. [5] يصعب على المستهلكين والمستخدمين الاستجابة بوسائل اقتصادية بديلة [الاكتفاء الذاتي ، الواردات ، إلخ]. [6] هي خدمة أساسية أو سلعة خدمية للصناعات الأخرى. بناءً على هذه الخصائص ، فإن الأهداف التنظيمية لضمان فائدة إحدى المرافق هي: [1] أسعار معقولة وعادلة [بشكل عام ، يُطلق على سعر خدمة إحدى المرافق رسومًا ، ويطلق على تكلفة النقل أجرة] ، [2] الخدمة المناسبة [3] الاستقرار المالي. على وجه التحديد ، فإن محتويات اللائحة هي الكشف عن محتوى الإدارة ، وتنظيم إنشاء / توسيع الأعمال التجارية ، والالتزام بتقديم / استمرار الخدمة ، والامتثال لعدالة الخدمة ، والعرض القانوني لمبدأ تحديد الأسعار أو نظام الإذن بتغيير الأسعار. وهكذا.

بالمقارنة مع الشركات الخاصة العادية ، فإن المرافق مسؤولة ليس فقط أمام المستثمرين ولكن أيضًا تجاه الأشخاص الذين هم مستهلكون للخدمة. لذلك ، فيما يتعلق بالمحاسبة ، هناك قواعد محاسبة أعمال المصلحة العامة بالإضافة إلى مبادئ المحاسبة العامة للشركات الخاصة ، لا سيما فيما يتعلق بإنصاف رسوم أعمال المصلحة العامة والمحتوى المالي الذي يشكل أساس تحديد الرسوم ، والشركات التي تنتمي إلى كل عمل تجاري . من ناحية أخرى ، يتم سنها في شكل مراسيم وزارية لكل وكالة تنظيمية وقواعد أو إخطارات تستند إليها. لذلك ، فإن أهم ميزة لمحاسبة المرافق العامة هي أنها لا تقتصر على وظائف إدارة الأصول المملوكة والحفاظ عليها ، والحكم على أداء الأعمال ، وتوفير المعلومات المالية ، ولكنها تعمل أيضًا كمعيار لتحديد الرسوم. كمرفق عام ، حتى إذا كانت الشركة الخاصة تخضع لأنظمة مختلفة أو أن كيانها الإداري يتبنى نظامًا للمنفعة العامة ، يجب أن تضمن المرافق العامة خصائص الشركة التالية بالإضافة إلى المصلحة العامة. نظرًا لأنها منظمة تم إنشاؤها بوعي لتحقيق غرض اقتصادي محدد ، فمن المهم أن يتم تنظيم أعضائها وعملها بشكل هادف. في الجمع بين عناصر الإدارة ، يجب ممارسة الابتكار لتحسين الإنتاجية. كما أنه من الضروري المساهمة في الاقتصاد الوطني من خلال ضمان الربحية كاقتصاد جزئي في الاقتصاد الكلي ، وتحقيق أداء جيد وتحسين دخل أعضائه.
→ رسوم المرافق
تويوشي نينومييا

لائحة المنازعات المتعلقة بقانون العمل

بموجب قانون العمل ، يمكن استخدام فكرة المنفعة العامة لتمييزها عن الأعمال العامة. تُعرَّف الأعمال التجارية التي لا غنى عنها للحياة اليومية للجمهور على أنها مرافق عامة [المادة 8 من قانون تعديل علاقات العمل] ، كما يتم تنظيم النزاعات والنزاعات العمالية المتعلقة بالمرافق العامة على وجه التحديد. المرافق العامة المشار إليها في القانون هي ، على وجه التحديد ، أعمال النقل ، وأعمال البريد / التلغراف والهاتف ، وأعمال إمدادات المياه / الكهرباء / الغاز ، والأعمال الطبية / الصحة العامة ، والتي لا غنى عنها للحياة اليومية للجمهور. يقول. بالنسبة للمشاريع الأخرى ، يجوز لرئيس الوزراء بالإضافة إلى ذلك تحديد فترة تصل إلى سنة واحدة [المادة 8]. عند حدوث نزاع عمالي [المادة 6] في مرفق عام ، يجوز للجنة علاقات العمل إجراء وساطة إجبارية [المادة 18 رقم 3-5] بالإضافة إلى ذلك ، عندما ينخرط اتحاد عمال المرافق العامة في نزاع [المادة 7] ، فإنه ملزم بترك فترة إخطار مدتها 10 أيام أو أكثر [المادة 37] ، مما يعيق بشكل كبير تشغيل الاقتصاد الوطني أو يضعف الحياة اليومية من الناس. تم إنشاء نظام تنسيق للطوارئ للنزاعات التي تشكل بالفعل خطرًا كبيرًا [المواد 35-2 و 35-3] ، والنزاعات محظورة لمدة 50 يومًا [المادة 38].
هيروشي واتانابي

Page 5

  • الخدمات[الدين والإيمان]

  • أداء الواجبات من قبل نادل أو خادم
    • هذا المطعم لديه خدمة ممتازة
  • صيانة دورية على سيارة أو آلة
    • لقد حان الوقت لإصلاح الجرار
  • فعل تسليم أمر أو استدعاء لشخص ما
  • فعل الطرح [إزالة جزء من الكل]
    • اشتكى من طرح المال من رواتبهم
  • فعل تخفيض سعر بيع البضائع
  • الضربة التي تضع الكرة في اللعب
    • ضربات إرساله القوية فازت بالمباراة
  • العمل الذي يقوم به شخص أو مجموعة لصالح شخص آخر
    • الميزانية منفصلة للسلع والخدمات
  • الأعمال التي قام بها المستأجر الإقطاعي الإنجليزي لصالح سيده والتي شكلت مقابل الملكية الممنوحة له
  • العمل في أو العمل لحساب آخر
    • تقاعد بعد 30 عاما من الخدمة
  • فعل تزاوج ذكور الحيوانات
    • كان الثور يستحق مالًا جيدًا في رسوم الخدمة
  • العبادة العامة باتباع القواعد المقررة
  • فعل العون أو المساعدة
  • أدوات المائدة تتكون من مجموعة كاملة من الأصناف [فضية أو أطباق] للاستخدام على المائدة
  • وسيلة للخدمة
    • بلا جدوى
    • لا توجد مساعدة لذلك
  • التفكير من العام إلى الخاص [أو من سبب إلى تأثير]
  • شيء مستدل
    • كان لاستقالته آثار سياسية
  • شركة أو وكالة تؤدي خدمة عامة ؛ تخضع للوائح الحكومية
  • القوة التي هي فرع من القوات المسلحة
  • شبكة من المرافق والأشخاص الذين يتفاعلون ويبقون على اتصال غير رسمي للمساعدة المتبادلة ؛ شبكة تمكنك من العيش بأسلوب معين
  • كاتب كندي [ولد في إنجلترا] كتب عن الحياة في إقليم يوكون [1874-1958]
  • مبلغ أو نسبة مخصومة
  • استرداد بعض الكسر من المبلغ المدفوع
  • الفائدة على أساس سنوي يتم خصمها مقدمًا على القرض
  • تخفيض في إجمالي المبلغ الذي يتم حساب الضريبة عليه ؛ يقلل الضرائب بنسبة مئوية ثابتة لفئة دخل دافع الضرائب

في الاقتصاد ، الخدمة عبارة عن معاملة لا يتم فيها نقل أي سلع مادية من البائع إلى المشتري. تُثبت فوائد هذه الخدمة من خلال رغبة المشتري في إجراء عملية التبادل. الخدمات العامة هي تلك التي يدفعها المجتمع [الدولة القومية ، الاتحاد المالي ، المنطقة] ككل. باستخدام الموارد والمهارات والإبداع والخبرة ، يستفيد مقدمو الخدمات من مستهلكي الخدمة. الخدمة غير ملموسة في الطبيعة.

المواد الغذائية والمواد الخام في الإنتاج هي السلع التي تساهم في أنشطة الإنتاج وإرضاء المستهلكين لأول مرة من خلال استهلاكها ، أي بتغيير شكلها أو اختفائها. من ناحية أخرى ، يمكن استخدام السلع الرأسمالية الثابتة مثل مرافق المصانع والآلات والأراضي والسلع الاستهلاكية المعمرة وما إلى ذلك لفترة طويلة من الوقت حتى تبلى وتتدهور ولا تختفي خلال تلك الفترة. ومع ذلك ، فإن ما يمكن أن يساهم في أنشطة الإنتاج والاستهلاك ، مثل المواد الخام والمواد الغذائية ، يعتبر أن هذه السلع توفر "سلعًا غير ملموسة" فعالة من حيث التكلفة يتم استخدامها أو استهلاكها في الإنتاج. هذا لأن العمل هو أيضًا سلعة غير ملموسة بشكل واضح. تسمى هذه السلع غير الملموسة عمومًا "الخدمات" وتتميز عن السلع التي تعتبر سلعًا ملموسة. تسمى الأمثلة المذكورة أعلاه خدمات رأس المال ، وخدمات الأراضي ، وخدمات العمالة ، وما إلى ذلك ، على التوالي. بالإضافة إلى التعريف الواسع للعمل نفسه ، يمكن تعريف خدمة العمل بالمعنى الضيق للعمل الذي لا علاقة له بإنتاج السلع الملموسة. على سبيل المثال ، تتلاءم صناعة النقل والشرطة وإدارات الإطفاء مع تعريف خدمات العمل على كلا الجانبين ، لكن العمل في الزراعة وصناعة التعدين لا يندرج تحت المعنى الضيق. غالبًا ما يشير مصطلح الخدمة المستخدم على أساس يومي اليوم إلى خدمة العمل المحددة بدقة. أيضا، قطاع الخدمات يتم تعريف خدمات العمل المدرجة في فئة الصناعة أيضًا بناءً على هذا التعريف الضيق.
→ بضائع
توشيهيرو ساتو

لغات اخرى

Video liên quan

Chủ Đề